Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Đó là những câu thơ rất quan thuộc của cố thi sĩ Tô Thuỳ Yên trích trong bài thơ có tựa đề “Ta Về”, được viết sau khi tác giả ra tù cuối năm 1985 sau 10 năm dài đằng đẵng. Bài thơ khá dài, tổng cộng 124 câu. Dài như là thông lệ và đặc tính của thơ Tô Thùy Yên, nhưng ở đây cần yếu tố dài để đủ trải lòng. Khởi hành từ con “đường lớn” sau cổng tù, tác giả miên man tự truyện, ngậm ngùi cho số phận, vượt trèo qua những “truông cùng phá”, chạnh lòng trên hoang tàn đổ nát, giải bày cho mẹ cha, mừng tủi với người xưa, và tự cởi bỏ những xích xiềng nặng trĩu tâm hồn.
Hai chữ “Ta Về” được tác giả dùng làm tựa cho bài thơ và, như một công thức, được lặp đi, lặp lại đến mười sáu lần cho mỗi tám câu; cứ thế, mỗi tám câu gói một ý thơ, cần cù điểm danh từng nét hoang phế, thanh thoát ứng xử xúc cảm trong mọi tình huống. Chỉ một điểm này thôi, chúng ta cũng thấy được sự trình bày có suy nghĩ, cân nhắc của tác giả.
Đại danh từ ta trong bài thơ là cái tôi khách thể, đóng vai ngôi thứ ba (được/bị nói về); và người kể chuyện (đang nói) là cái tôi chủ thể, nói về cái tôi tổng thể. Còn một cái tôi nữa vô hình nhưng hữu thức (đang lắng nghe). Hiện tượng này loài người vẫn thường làm và gọi đó là tự thoại. Gọi mình là ta để khái quát cái tôi – gồm cả thể, tâm, thức. Dĩ nhiên độc thoại cũng là một thói quen khó bỏ của mười năm tù. Vì là độc thoại cho nên không có nhân vật thứ hai, chỉ có thân ta in bóng giữa đất trời trong nét cô quạnh, tang thương tận cùng.
Nét hoang tàn-bi hùng trong bài thơ đắp thêm bề dầy cho tâm lý nhân vật, nhìn cảnh mà thấy não lòng:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn khách mới thưa
Thụy Khuê rất thi vị khi khoác cho Tô Thuỳ Yên cụm từ “hành giả của cô đơn.” Trong bài Ta Về, cô tịch là khung vải nền cho thi sĩ vung bút. Chỉ bốn câu đầu thôi đủ để nói lên sự cô đơn bao trùm không gian. Vẻ phong trần, coi thường thế sự, đạp trên hoang tàn mà đi, nói lên phong cách của nhân vật.
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.
Ngậm ngùi vì sự thay đổi tâm lý quá lớn. Qua suy thoái hình hài, hậu quả của 10 năm chung sống với những sinh vật có thủ đoạn đẩy lùi loài người về thời tiền sử, tác giả dí dỏm: “Ta hóa thân thành vượn cổ xưa”. Nhưng không phải vậy. “Ta vẫn là ta”. Như đóa hoa khô cố gắng vươn lên giữa khe đá, tráng sĩ trở về sau trận phong ba, trái tim tưởng chừng chai sạm, vậy mà vẫn “ngẩn ngơ trông trời đất cũ”, cảm thán vô thường, xót xa cho phận người, phận mình, cho thiếu sót (hay sai phạm) của chính mình, của lịch sử. Đạt Ma Tổ Sư sau chín năm bích diện để lại Dịch Cân Kinh. Bậc hành giả sau mười năm “tọa thiền” bất đắc dĩ cũng ngộ ra mấy chữ nhân-sinh-biến-chuyển.
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.
Phong cách của hành giả thì khỏi nói, thật đúng là đáo bỉ ngạn của nhà Phật, pha chút vô vi của Lão Trang; vì phải đi tới tận cùng của đau khổ mới cảm thấy được chân hạnh phúc. Niềm hạnh phúc khó diễn tả của người leo núi, sau khi lên tới đỉnh cao, nhìn xuống dưới, đảo mắt chung quanh, mới ngộ ra rằng vách núi cheo leo vất vả kia thật nhỏ bé so với những gì ta đang thấy.
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Và cứ thế nhiều lần như vậy trong bài thơ, tác giả cho thấy bến bờ chân lý luôn ẩn hiện trong dòng nghiệt ngã. Trong tận cùng đau khổ là hạnh phúc. Trong thất vọng người lại tìm thấy hy vọng. Những lúc cần bám víu, dĩ vãng có thể là nơi nương tựa. Một trong những cái phao đó là tuổi thơ êm đềm, để trong phút giây oan khiên nhất, nó giúp ta vượt qua đau khổ. Lời thơ bình dị, trong sáng, đẹp lạ lùng hoa bướm.
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Và tự khẳng định về tính hiện hữu thủy chung của nhân vật, đượm chất hồn nhiên, đơn sơ, nhỏ bé nhưng vẫn ngang tàng, khí phách.
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.
Có một đoạn không biết vì vô tình hay cố ý, tác giả cho mình như đứa con hoang đàng trong Thánh Kinh, phung phá cho tới khánh kiệt mọi bề, rồi trở về trong tiếng ăn năn. Một hình ảnh khá ấn tượng, nhiều thi tính –một lần nữa – để ngậm ngùi cho canh bạc thua cháy túi.
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về – phải về “dẫu phải đi chân đất” – để đuổi bắt quãng thời gian hoang phí sau cánh cửa nhà, để “mừng giàn giụa mắt ai sâu”, để “nghe như máu ân tình chảy”, và trong lúc mừng mừng tủi tủi đó sẽ nói với người vợ yêu rằng chúng ta giống nhau trong khốn khổ:
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Như Kiều của Nguyễn Du, tác giả phải trải qua thời gian đoạn trường. Chắc chắn là một dấu ấn khó quên trong ký ức mười năm tắm gội dâu bể:
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay…
Mười năm mặt sạm soi khe nước…
Mười năm thế giới già trông thấy…
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó…
Nhưng cuối cùng:
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Cái ta chung thủy để đối với thế giới quay cuồng. Cái ta của một bản ngã vượt ra ngoài thời gian để nối kết và tập hợp thành cái ta tổng thể. Cái ta màu trắng hoa sen nở ra trên vũng bùn đen hận thù. Chỉ có cái tâm như vậy mới ngộ được cái đạo đất trời. Có lẽ thăng hoa nhất trong bài thơ là hai câu sau này:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Nghe như tiếng khánh ngân trong gió chiều, lời thơ bình hòa, trong sáng để gióng lên hồi chuông tỉnh thức cho những con người còn đắm chìm hận thù. Ta về không phải để trả cái thù 10 năm theo kiểu kiếm hiệp ơn đền, oán trả, mà để giải oan, giải bùa cho “cuộc biển dâu này”. Ta về chốn xưa cảnh vật tiêu điều, “Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ”, không phải để than thân trách phận, nhưng sẽ trân quý từng bông hoa ngọn cỏ.
Bài thơ Ta Về ra đời trong thời gian điêu linh nhất của một đời người, thế nhưng lại quang sáng, không hề có bóng đen hận thù; tất cả chông gai như những bậc thang nâng nhân vật lên đỉnh cao của bình an vị tha. Tô Thuỳ Yên muốn nhắn rằng phải quên đi thù hận mới là sống cho đúng con người; thế giới này cần ý thức như vậy để sống còn. Triết lý vị tha cao thượng, lời thơ bi hùng xoáy vào tâm can, giọng thơ như tiếng hịch phát ra sấm sét, âm vang như lời kinh hòa bình, tất cả là thách đố, cảnh tỉnh giữa một không gian tăm tối đầy ma lực, âm khí.
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi.
Đọc tới đây có lẽ người đọc sẽ mỉm cười thích thú với chút ngạc nhiên bởi vì nhân vật hóa hoạt kê, khoác vào cái áo bào bát quái, vừa múa gươm vừa kể chuyện xưa.
Bài thơ là một bài thương ca vô tận, hun đúc trong lao tù, có thể cho là đại diện cho một lớp người hay một thế hệ, và, cũng có thể bao la hơn, cho cả một đất nước đau thương. Bài thơ là một hành trình tư tưởng bắt đầu từ gặp gỡ trong thù hận cho đến tỏa sáng trong nhân bản.
Lời thơ dài nhưng tác giả cho người đọc cái cảm tưởng ý thơ chưa dứt:
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Thơ tới đây không cần phải “đề vạt áo” nữa vì thơ đã thoát thai, chắp cánh như chim trời. Con người và vũ trụ hình như hòa nhập và hiểu nhau hơn. Khổ cuối có hai câu rất thi vị và thoát trần, thêm sức ngân xa thẳm.
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua.
Ta về mà cũng như đi, tích tụ cái tinh hoa, rồi lại thả nó tiêu dao trong trời đất!
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nói về cái ta thoát tục. “Một mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là cái ta đắm chìm trong thiên nhiên. “Mười năm ta vẫn cứ là ta” của Tô Thuỳ Yên là cái ta được tôi luyện, dám thách thức với cuồng bạo, tỏa được khí hạo nhiên, ngang nhiên đứng giữa đất trời. Đáng phục lắm thay!
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở ?
Mười năm, cây có nhớ người xa ?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con ngẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Đó là những câu thơ rất quan thuộc của cố thi sĩ Tô Thuỳ Yên trích trong bài thơ có tựa đề “Ta Về”, được viết sau khi tác giả ra tù cuối năm 1985 sau 10 năm dài đằng đẵng. Bài thơ khá dài, tổng cộng 124 câu. Dài như là thông lệ và đặc tính của thơ Tô Thùy Yên, nhưng ở đây cần yếu tố dài để đủ trải lòng. Khởi hành từ con “đường lớn” sau cổng tù, tác giả miên man tự truyện, ngậm ngùi cho số phận, vượt trèo qua những “truông cùng phá”, chạnh lòng trên hoang tàn đổ nát, giải bày cho mẹ cha, mừng tủi với người xưa, và tự cởi bỏ những xích xiềng nặng trĩu tâm hồn.
Hai chữ “Ta Về” được tác giả dùng làm tựa cho bài thơ và, như một công thức, được lặp đi, lặp lại đến mười sáu lần cho mỗi tám câu; cứ thế, mỗi tám câu gói một ý thơ, cần cù điểm danh từng nét hoang phế, thanh thoát ứng xử xúc cảm trong mọi tình huống. Chỉ một điểm này thôi, chúng ta cũng thấy được sự trình bày có suy nghĩ, cân nhắc của tác giả.
Đại danh từ ta trong bài thơ là cái tôi khách thể, đóng vai ngôi thứ ba (được/bị nói về); và người kể chuyện (đang nói) là cái tôi chủ thể, nói về cái tôi tổng thể. Còn một cái tôi nữa vô hình nhưng hữu thức (đang lắng nghe). Hiện tượng này loài người vẫn thường làm và gọi đó là tự thoại. Gọi mình là ta để khái quát cái tôi – gồm cả thể, tâm, thức. Dĩ nhiên độc thoại cũng là một thói quen khó bỏ của mười năm tù. Vì là độc thoại cho nên không có nhân vật thứ hai, chỉ có thân ta in bóng giữa đất trời trong nét cô quạnh, tang thương tận cùng.
Nét hoang tàn-bi hùng trong bài thơ đắp thêm bề dầy cho tâm lý nhân vật, nhìn cảnh mà thấy não lòng:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Tô Thùy Yên -Ta Về
Ngâm thơ: Trần Diệu Hằng
- Phổ nhạc và trình bày: Đình Đại
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn khách mới thưa
Thụy Khuê rất thi vị khi khoác cho Tô Thuỳ Yên cụm từ “hành giả của cô đơn.” Trong bài Ta Về, cô tịch là khung vải nền cho thi sĩ vung bút. Chỉ bốn câu đầu thôi đủ để nói lên sự cô đơn bao trùm không gian. Vẻ phong trần, coi thường thế sự, đạp trên hoang tàn mà đi, nói lên phong cách của nhân vật.
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.
Ngậm ngùi vì sự thay đổi tâm lý quá lớn. Qua suy thoái hình hài, hậu quả của 10 năm chung sống với những sinh vật có thủ đoạn đẩy lùi loài người về thời tiền sử, tác giả dí dỏm: “Ta hóa thân thành vượn cổ xưa”. Nhưng không phải vậy. “Ta vẫn là ta”. Như đóa hoa khô cố gắng vươn lên giữa khe đá, tráng sĩ trở về sau trận phong ba, trái tim tưởng chừng chai sạm, vậy mà vẫn “ngẩn ngơ trông trời đất cũ”, cảm thán vô thường, xót xa cho phận người, phận mình, cho thiếu sót (hay sai phạm) của chính mình, của lịch sử. Đạt Ma Tổ Sư sau chín năm bích diện để lại Dịch Cân Kinh. Bậc hành giả sau mười năm “tọa thiền” bất đắc dĩ cũng ngộ ra mấy chữ nhân-sinh-biến-chuyển.
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.
Phong cách của hành giả thì khỏi nói, thật đúng là đáo bỉ ngạn của nhà Phật, pha chút vô vi của Lão Trang; vì phải đi tới tận cùng của đau khổ mới cảm thấy được chân hạnh phúc. Niềm hạnh phúc khó diễn tả của người leo núi, sau khi lên tới đỉnh cao, nhìn xuống dưới, đảo mắt chung quanh, mới ngộ ra rằng vách núi cheo leo vất vả kia thật nhỏ bé so với những gì ta đang thấy.
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Và cứ thế nhiều lần như vậy trong bài thơ, tác giả cho thấy bến bờ chân lý luôn ẩn hiện trong dòng nghiệt ngã. Trong tận cùng đau khổ là hạnh phúc. Trong thất vọng người lại tìm thấy hy vọng. Những lúc cần bám víu, dĩ vãng có thể là nơi nương tựa. Một trong những cái phao đó là tuổi thơ êm đềm, để trong phút giây oan khiên nhất, nó giúp ta vượt qua đau khổ. Lời thơ bình dị, trong sáng, đẹp lạ lùng hoa bướm.
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Và tự khẳng định về tính hiện hữu thủy chung của nhân vật, đượm chất hồn nhiên, đơn sơ, nhỏ bé nhưng vẫn ngang tàng, khí phách.
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.
Có một đoạn không biết vì vô tình hay cố ý, tác giả cho mình như đứa con hoang đàng trong Thánh Kinh, phung phá cho tới khánh kiệt mọi bề, rồi trở về trong tiếng ăn năn. Một hình ảnh khá ấn tượng, nhiều thi tính –một lần nữa – để ngậm ngùi cho canh bạc thua cháy túi.
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về – phải về “dẫu phải đi chân đất” – để đuổi bắt quãng thời gian hoang phí sau cánh cửa nhà, để “mừng giàn giụa mắt ai sâu”, để “nghe như máu ân tình chảy”, và trong lúc mừng mừng tủi tủi đó sẽ nói với người vợ yêu rằng chúng ta giống nhau trong khốn khổ:
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Như Kiều của Nguyễn Du, tác giả phải trải qua thời gian đoạn trường. Chắc chắn là một dấu ấn khó quên trong ký ức mười năm tắm gội dâu bể:
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay…
Mười năm mặt sạm soi khe nước…
Mười năm thế giới già trông thấy…
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó…
Nhưng cuối cùng:
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Cái ta chung thủy để đối với thế giới quay cuồng. Cái ta của một bản ngã vượt ra ngoài thời gian để nối kết và tập hợp thành cái ta tổng thể. Cái ta màu trắng hoa sen nở ra trên vũng bùn đen hận thù. Chỉ có cái tâm như vậy mới ngộ được cái đạo đất trời. Có lẽ thăng hoa nhất trong bài thơ là hai câu sau này:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Nghe như tiếng khánh ngân trong gió chiều, lời thơ bình hòa, trong sáng để gióng lên hồi chuông tỉnh thức cho những con người còn đắm chìm hận thù. Ta về không phải để trả cái thù 10 năm theo kiểu kiếm hiệp ơn đền, oán trả, mà để giải oan, giải bùa cho “cuộc biển dâu này”. Ta về chốn xưa cảnh vật tiêu điều, “Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ”, không phải để than thân trách phận, nhưng sẽ trân quý từng bông hoa ngọn cỏ.
Bài thơ Ta Về ra đời trong thời gian điêu linh nhất của một đời người, thế nhưng lại quang sáng, không hề có bóng đen hận thù; tất cả chông gai như những bậc thang nâng nhân vật lên đỉnh cao của bình an vị tha. Tô Thuỳ Yên muốn nhắn rằng phải quên đi thù hận mới là sống cho đúng con người; thế giới này cần ý thức như vậy để sống còn. Triết lý vị tha cao thượng, lời thơ bi hùng xoáy vào tâm can, giọng thơ như tiếng hịch phát ra sấm sét, âm vang như lời kinh hòa bình, tất cả là thách đố, cảnh tỉnh giữa một không gian tăm tối đầy ma lực, âm khí.
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi.
Đọc tới đây có lẽ người đọc sẽ mỉm cười thích thú với chút ngạc nhiên bởi vì nhân vật hóa hoạt kê, khoác vào cái áo bào bát quái, vừa múa gươm vừa kể chuyện xưa.
Bài thơ là một bài thương ca vô tận, hun đúc trong lao tù, có thể cho là đại diện cho một lớp người hay một thế hệ, và, cũng có thể bao la hơn, cho cả một đất nước đau thương. Bài thơ là một hành trình tư tưởng bắt đầu từ gặp gỡ trong thù hận cho đến tỏa sáng trong nhân bản.
Lời thơ dài nhưng tác giả cho người đọc cái cảm tưởng ý thơ chưa dứt:
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Thơ tới đây không cần phải “đề vạt áo” nữa vì thơ đã thoát thai, chắp cánh như chim trời. Con người và vũ trụ hình như hòa nhập và hiểu nhau hơn. Khổ cuối có hai câu rất thi vị và thoát trần, thêm sức ngân xa thẳm.
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua.
Ta về mà cũng như đi, tích tụ cái tinh hoa, rồi lại thả nó tiêu dao trong trời đất!
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nói về cái ta thoát tục. “Một mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là cái ta đắm chìm trong thiên nhiên. “Mười năm ta vẫn cứ là ta” của Tô Thuỳ Yên là cái ta được tôi luyện, dám thách thức với cuồng bạo, tỏa được khí hạo nhiên, ngang nhiên đứng giữa đất trời. Đáng phục lắm thay!
Nguồn: tác giả Tạo Ân
Ta về một bóng trên đường lớnThơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở ?
Mười năm, cây có nhớ người xa ?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con ngẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire