Đà Lạt mệnh danh thành phố ngàn hoa, nơi đó, có nhiều loài hoa chỉ
thích hợp với khí hậu lành lạnh cao nguyên. Giữa khung trời ngàn hoa, có
loài hoa được viết thành nhiều ca khúc: Hoa Anh Đào. Loài hoa này trở
thành hình ảnh quen thuộc, tiêu biểu, gợi tình, gợi nhớ cho phố núi mù
sương, thơ mộng được vang vọng cho cả bốn mùa nhờ dòng nhạc của nhạc sĩ
Hoàng Nguyên.
Nói đến Hoàng Nguyên, mọi người đều liên tưởng đến hai nhạc phẩm một thời yêu thương, vang bóng: Ai Lên Xứ Hoa Đào – Bài Thơ Hoa Đào. Và ngược lại, nói đến Đà Lạt cùng Hoa Anh Đào, chúng ta nhớ đến Hoàng Nguyên.
Lãng đãng, mờ ảo với khói sương, với màu hoa, với mây trời… giữa chốn trần tục được thăng hoa qua lời ca tiếng nhạc, như lạc bước vào chốn bồng lai.
Ai Lên Xứ Hoa Đào, bắt gặp hình ảnh:
“Ai lên xứ Hoa Đào, dừng chân bước lần theo đường hoa.
Hoa bay đến muôn người, ngại ngần rồi hoa theo chân ai,
Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa,
Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương,
Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa, lặng bước trong lãng quên…”
Với tâm hồn lữ khách mộng mơ, trữ tình… ru hồn vào cõi mộng cùng bóng dáng giai nhân như tơ vương mây trời giăng mắc trong Bài Thơ Hoa Đào:
“Ngày nào dừng chân phiêu lãng, khách tới đây khi hoa đào vương lối đi.
Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người,
Bồi hồi lòng lữ khách thấy cơi vơi…
…Giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần
Tóc mây buông lơi tha thiết bên hồ.
Đợi tình quân đến trong giấc mơ…”.
Chàng lữ khách đó sinh trưởng và lớn lên ở Quảng Trị và Huế. Cũng như
nhiều chàng trai trẻ khác, trót nghe theo tiếng gọi tham gia kháng
chiến chống Pháp vào đầu thập niên 1950. Đụng chạm thực tế phũ phàng,
ngán ngẫm, chàng giã từ núi rừng miền Trung, chu du vào thành phố mù
sương. Mang tâm hồn nghệ sĩ, Hoàng Nguyên (nhà giáo Cao Cự Phúc) có năng
khiếu về hội họa và âm nhạc như Văn Cao. Và chàng thư sinh đó mang tâm
hồn lãng mạn, say mê hình ảnh theo truyền thuyết hai chàng Lưu Thần,
Nguyễn Triệu vào dịp tết Đoan Ngọ lạc chốn thiên thai với thiên nhiên,
mây ngàn gió núi, tiếng thông reo, suối gọi như tiếng nhạc quyện hồn
cùng hình ảnh tiên nữ. Ca khúc Đường Nào Lên Thiên Thai xuất
hiện cùng với bước chân lãng du chàng phiêu bạt trong nỗi mê hoặc,
trong lời cám dỗ ở tâm hồn nghệ sĩ bởi phù hợp với khung cảnh trữ tình
làm thành ca khúc, say đắm khán thính giả thành phố mù sương:
“Cầm tay em, anh hỏi: đường nào lên thiên thai, đường nào lên thiên thai…
Nơi hoa xuân không hề tàn
Nơi bướm xuân không hề nhạt
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ…”
Rồi, nơi đó, tâm trạng, niềm khắc khoải, ưu tư được tỏ bày:
“Anh nào biết đường lên thiên thai!
Khi trời đất còn vương thương đau
Khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu?
Anh nào biết đường lên thiên thai
Khi lòng còn như băng buốt giá
Và tình còn e ấp nói không nên lời…”
Nói đến Hoàng Nguyên, mọi người đều liên tưởng đến hai nhạc phẩm một thời yêu thương, vang bóng: Ai Lên Xứ Hoa Đào – Bài Thơ Hoa Đào. Và ngược lại, nói đến Đà Lạt cùng Hoa Anh Đào, chúng ta nhớ đến Hoàng Nguyên.
Lãng đãng, mờ ảo với khói sương, với màu hoa, với mây trời… giữa chốn trần tục được thăng hoa qua lời ca tiếng nhạc, như lạc bước vào chốn bồng lai.
Ai Lên Xứ Hoa Đào, bắt gặp hình ảnh:
“Ai lên xứ Hoa Đào, dừng chân bước lần theo đường hoa.
Hoa bay đến muôn người, ngại ngần rồi hoa theo chân ai,
Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa,
Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương,
Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa, lặng bước trong lãng quên…”
Lệ Thu – Ai Lên Xứ Hoa Đào
“Ngày nào dừng chân phiêu lãng, khách tới đây khi hoa đào vương lối đi.
Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người,
Bồi hồi lòng lữ khách thấy cơi vơi…
…Giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần
Tóc mây buông lơi tha thiết bên hồ.
Đợi tình quân đến trong giấc mơ…”.
Thanh Lan – Bài Thơ Hoa Đào
“Cầm tay em, anh hỏi: đường nào lên thiên thai, đường nào lên thiên thai…
Nơi hoa xuân không hề tàn
Nơi bướm xuân không hề nhạt
Nơi tình xuân không úa màu bao giờ…”
Rồi, nơi đó, tâm trạng, niềm khắc khoải, ưu tư được tỏ bày:
“Anh nào biết đường lên thiên thai!
Khi trời đất còn vương thương đau
Khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu?
Anh nào biết đường lên thiên thai
Khi lòng còn như băng buốt giá
Và tình còn e ấp nói không nên lời…”
Thanh Thúy – Đường Nào Lên Thiên Thai
Dáng người dong dỏng cao, mái tóc chải bồng bềnh, nhà giáo, nhạc sĩ
bước vào tuổi đôi mươi, tay ôm cây đàn guitare, giọng hát trầm buồn,
điểm chút phong trần, lãng tử trông tựa bức tranh The Guitarist của
Picasco, trở thành thần tượng cho bao kiều nữ yêu văn nghệ, và vô hình
trung gợi lại quá khứ đáng “lưu ý” đối với chính quyền.
Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh
Quang, khu số 4 Đà Lạt, Thượng tọa Thích Thiện Tấn (anh ruột thầy Nhất
Hạnh) làm Hiệu trưởng. Nhà giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục,
thầy Nhất Hạnh dạy Việt văn lớp đệ thất. Tên tuổi hai nhà giáo như một
hấp lực, lôi cuốn học sinh đến trường Tuệ Quang.
Chẳng được bao lâu, sóng gió cuộc đời nổi dậy, năm 1956, trong một
trận lùng bắt ở Đà Lạt, trường Tuệ Quang có nhiều nhà giáo bị bắt như Lý
Quốc Việt, giáo sư Toán Lý Hóa, Nguyễn Hữu chỉnh, giáo sư Pháp văn… vì
hoạt động đảng phái (Đại Việt) và Cao Cự Phúc (Hoàng Nguyên) từng có
tham gia trong phong trào “kháng chiến”.
Trưởng ty Công an cảnh sát Phạm Trọng Lý vốn đã có thành kiến với
Hoàng Nguyên, nhân cơ hội nầy, quy kết đầu mối có bàn tay của “đối
tượng” nên đem nhân viên công lực đến nhà khám xét. Chẳng may, bắt gặp
được nhiều bản nhạc tiền chiến, có cả bản “Tiến Quân Ca” của Văn Cao,
nhạc phẩm mà Hoàng Nguyên rất ái mộ. Văn Cao đã nổi danh với ca khúc
Thiên Thai. Dưới mắt quan chức thẩm quyền, đứng đầu là Trung tá Tỉnh
trưởng, nhạc phẩm Đường Nào Lên Thiên Thai có phần ủy mị, yếm
thế, ru ngủ tuổi trẻ, và ông cho rằng người sáng tác nhạc phẩm này mơ về
một thiên đường không tưởng, vẫn còn đi theo con đường của văn nghệ sĩ
“phía bên kia”. Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957.
Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với
cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng
Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta
về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho ái nữ ông, tên H. năm đó khoảng 19
tuổi… Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi
trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở.
Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so
le bị phát giác. Để giữ thể diện cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín
chuyện này và chỉ nói riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng
Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của
hai người, và ông sẽ vận động để Hoàng Nguyên được trả tự do…
Đứng trước hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan, Hoàng Nguyên phải hứa để đáp ứng điều kiện nhằm gỡ danh dự cho gia đình vị Chúa Đảo.
Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, lên Đà Lạt thăm lại
trường cũ. Dù rất yêu thích thành phố cao nguyên, song cuộc sống không
được thoải mái nên chàng về ở Sài Gòn. Tuy đã hứa và “Đây là mối tình
lớn của người nghệ sĩ. Nhưng cánh chim bằng yêu chuộng tự do và nghệ
thuật, Hoàng Nguyên không dám trở lại hải đảo để làm rễ ở một nơi rất
thiếu tình người, quanh năm suốt tháng khô cằn với sinh hoạt hẹp hòi của
những người áo xanh… Chàng đành làm cánh chim bay không bao giờ trở
lại.
Ở Sài Gòn, Hoàng Nguyên vừa tiếp tục con đường văn nghệ vừa dạy học ở
trường tư thục Quốc Anh, vừa tìm cách tiến thân trên con đường học vấn.
Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh
văn. Thời gian theo học đại học, Hoàng Nguyên được sự bảo bọc của ông bà
Phạm Ngọc Thìn, Thị trưởng Phan Thiết, tư thất ở Sài Gòn. Phu nhân Phạm
Ngọc Thìn là nữ tài tử Huỳnh Khanh cảm mến tài nghệ và tính tình của
Hoàng Nguyên nên nhận làm em nuôi, nhân tiện dạy kèm con gái của ông bà
là cô Ngọc Thuận. Ngọc Thuận là một thiếu nữ đài các, tâm hồn lãng mạn,
làm thơ, viết văn, viết báo… dười bút hiệu Trưng Liệt Dung.
Hoàng Nguyên khởi đầu là em nuôi của gia đình ông bà Phạm Ngọc Thìn
để dạy cho ái nữ, dần dà hai tâm hồn thầy trò đa cảm gặp nhau, Hoàng
Nguyên yêu đắm đuối cô con gái ông Phạm Ngọc Thìn và cuối cùng trở thành
rể của gia đình ân nhân trên. Ca khúc Thuở Ấy Yêu Nhau ra đời trong khoảng thời gian nầy:
“Thuở ấy yêu nhau anh làm thơ
Thuở ấy yêu nhau em đợi chờ,
Dòng nước Hương Giang trôi lặng lờ
Chưa biết chi giận hờn và chưa biết sầu mộng mơ…
Thuở ấy yêu nhau em đợi chờ,
Dòng nước Hương Giang trôi lặng lờ
Chưa biết chi giận hờn và chưa biết sầu mộng mơ…
…Và người lên xe hoa
Từ giã bến sông dài!
Để đến hôm nay tôi ngồi đây
Lặng ngắm hoa soan rơi rụng đầy. Người ơi, thơ ngây đã lỡ rồi
Khi ta xa nhau rồi, tôi xin chép lại vần thơ”.
Từ giã bến sông dài!
Để đến hôm nay tôi ngồi đây
Lặng ngắm hoa soan rơi rụng đầy. Người ơi, thơ ngây đã lỡ rồi
Khi ta xa nhau rồi, tôi xin chép lại vần thơ”.
Thái Thanh – Thuở Ấy Yêu Nhau
Ca khúc bày tỏ nỗi niềm của chàng nhạc sĩ với người con gái đã có đứa
con với chàng ở Côn Sơn, được gia đình đưa về sinh sống bên dòng Hương
Giang. Chàng đã bắt được liên lạc với nàng nhưng nàng đã chịu đắng cay
với niềm đau phụ tình nên không thể hàn gắn mối tình mang đậm vết
thương. Nàng tạo lập cuộc đời mới với người đàn ông khác.
Trở lại Sài Gòn, Hoàng Nguyên nhận Ngọc Thuận làm vợ. Thế nhưng, Ngọc
Thuận lại rất ghen tuông. Khi biết được ẩn tình của ca khúc Thuở Ấy Yêu Nhau,
nàng đã tức giận, đốt nhiều sáng tác viết tay của Hoàng Nguyên, không
muốn người chồng còn vướng mắc hình ảnh người tình xưa cũ nào trong cung
đàn nét nhạc.
Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ
Đức. Ra trường được thuyên chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá
nhạc sĩ Anh Việt – Trần Văn Trọng. Ban nhạc Hương Thời Gian của Anh Việt
giao cho Hoàng Nguyên làm trưởng ban, phần kỷ thuật và hòa âm do Nguyễn
Hậu (em ruột của Nguyễn Hiền) đảm nhận. Hương Thời Gian xuất hiện trên
Truyền thanh và Truyền hình đã thu hút khá đông thính giả mộ điệu.
Thế rồi, trong một chuyến công tác bằng xe Jeep ở miền Đông, Hoàng
Nguyên qua đời tại dốc 47 Vũng Tàu bằng tai nạn xe hơi năm 1972. Hoàng
Nguyên vĩnh viễn ra đi vào cõi miên viễn lúc vừa 40, được chôn cất ở
nghĩa trang đô thành, để lại vợ và 3 con.
Năm 1973, nhóm thân hữu Hoàng Nguyên gồm nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Anh
Việt, Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài cho xuất bản tuyển tập nhạc của nhóm thân
hữu nói trên để phổ biến, lấy tiền xây mộ bia cho Hoàng Nguyên.
Hoàng Nguyên sáng tác rất nhiều nhạc phẩm, đã một thời vang vọng, nét
nhạc lời ca nhẹ nhàng, duyên dáng, trử tình, đam mê… vương vấn đau
thương.
Nhạc khúc Tà Áo Tím đã làm sống dậy hình ảnh yêu kiều, thướt tha của chốn thần kinh bên dòng sông Hương, núi Ngự:
“Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang
Tôi gặp một tà áo tím
Nhẹ thấp thoáng trong nắng hương
Màu áo tím sao luyến thương
Màu áo tím sao vấn vương…
Tôi gặp một tà áo tím
Nhẹ thấp thoáng trong nắng hương
Màu áo tím sao luyến thương
Màu áo tím sao vấn vương…
…Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc
Mặc dòng sông dịu nghiêng luyến tiếc
Mặc chiều thu buồn như hối tiếc…
Mặc dòng sông dịu nghiêng luyến tiếc
Mặc chiều thu buồn như hối tiếc…
Tôi mơ màu áo, ước mong sao áo màu khép kín tin nhau…
…Người áo tím qua cầu, và áo tím phai mầu
Để dòng Hương Giang hờ hững cuốn nơi nào!”.
Để dòng Hương Giang hờ hững cuốn nơi nào!”.
Carol Kim – Tà Áo Tím
Trong ca khúc Cho Người Tình Lỡ, tỏ bày tâm trạng của người nghệ sĩ cho cuộc tình ngang trái, lỡ làng:
“Anh giờ đây như là chim
Rã rời cánh, biết bay phương trời nao!
Em giờ đây như cành hoa
Cho tả tơi đong đưa ngọn gió nào…
Rã rời cánh, biết bay phương trời nao!
Em giờ đây như cành hoa
Cho tả tơi đong đưa ngọn gió nào…
Thế là hết nước trôi qua cầu
Đã chìm sâu những tháng ngày đam mê,
Thôi đành quên những thương yêu đầu
Như là yêu, với nay đã quá xa!.”
Đã chìm sâu những tháng ngày đam mê,
Thôi đành quên những thương yêu đầu
Như là yêu, với nay đã quá xa!.”
Dạ Hương – Cho Người Tình Lỡ
Niềm cay đắng, bi thương đó, cùng với sự nuối tiếc để trang trải, tha thứ cho nhau, thấp thoáng trong tình khúc Đừng Trách Gì Nhau:
“Ôi! trời làm giông tố,
Để người thầm trách người sao hững hờ khôn nguôi.
Ôi! nửa đời gió sương
Mà còn đắng cay, mà còn chua xót vì nhau…
Để người thầm trách người sao hững hờ khôn nguôi.
Ôi! nửa đời gió sương
Mà còn đắng cay, mà còn chua xót vì nhau…
…Oán trách nhau chi, bơ vơ nhiều rồi, xót xa nhiều rồi”.
Dạ Hương – Đừng Trách Gì Nhau
Khi khoác áo chiến y, Hoàng Nguyên sáng tác nhiều nhạc phẩm về hình ảnh người chiến sĩ, tình ca Lá Rụng Ven Sông là một trong những bản tango hay nhất vào thập niên 1960 và 70:
“Thương ai ngoài sương gió
Đời lính chiến gian lao
Đêm đêm nhìn tay súng
Lòng nghĩ tới mai sau
Đời lính chiến gian lao
Đêm đêm nhìn tay súng
Lòng nghĩ tới mai sau
Thương ai vì sông núi
Mà khoác áo chinh y
Thương ai vẫn thương ai.
Thương ai, đã thương ai rồi
Mà khoác áo chinh y
Thương ai vẫn thương ai.
Thương ai, đã thương ai rồi
Dù tháng năm dần trôi
Dù lá hoa tàn phai
Lòng nầy vẫn nhớ thương ai…”
Dù lá hoa tàn phai
Lòng nầy vẫn nhớ thương ai…”
Thanh Thúy – Lá Rụng Ven Sông
Trong
chinh chiến, người chiến binh vẫn mang nặng tình cảm chan chứa, lãng
mạn giữa cảnh ngăn cách tiền tuyến, hậu phương được gởi gấm trong nhạc
phẩm Sao Em Không Đến:
Sao Em Không Đến - Hoàng Nguyên - Bảo Yến
“Đời tôi từ ngày khoác áo chiến binh
Lên đường, biết rằng lòng nầy đã bớt vấn vương
Chiều nay, lòng chợt thấy nhớ thương em
Thương về mái tóc êm đềm
Buông dài phủ kín hồn anh…”
Lên đường, biết rằng lòng nầy đã bớt vấn vương
Chiều nay, lòng chợt thấy nhớ thương em
Thương về mái tóc êm đềm
Buông dài phủ kín hồn anh…”
Trích bài viết của tác giả Vương Trùng Dương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire