samedi 25 septembre 2021

GỎI KHÔ BÒ CỦA “ÔNG GIÀ CHEMISE NOIRE”. - Phạm Công Luận

Một truyện ngắn đăng trên báo Tuổi Ngọc trước 1975 có chi tiết đáng nhớ. Chàng trai trong truyện đi chuyến công tác vào Sài Gòn. Khi quay ra miền Trung, tới đèo Hải Vân anh chợt thấy tiếc vì chưa kịp ăn món gỏi khô bò của “ông già áo đen” ở khu nước mía Viễn Đông đường Pasteur, Sài Gòn. Anh đã tìm cách quay lại Sài Gòn để thực hiện ước mơ ấy... 

Câu chuyện khó tin vì chẳng mấy ai thực hiện chuyến đi xa xôi như vậy trong thời chiến chỉ để ăn món gỏi khô bò. Có lẽ đó chỉ là một ẩn dụ về nỗi tiếc nuối của chàng trai trẻ xa thành phố, lao vào vùng chiến sự và nhớ về những niềm vui đời thường nơi phố xá phồn hoa. Nhưng cái tên “ông già áo đen” trong truyện ngắn đó là có thật.
Ai sống ở Sài Gòn những năm trước 1975 đều biết khu nước mía đắt khách nằm ngay góc ngã tư Lê Lợi – Pasteur, dưới chân tòa nhà hãng bảo hiểm Viễn Đông. Quây quanh góc đường, trên lề dành cho người đi bộ là nhiều hàng quán, xe bán hàng rong, hình thành một khu ẩm thực gọi chung là khu nước mía Viễn Đông, nổi tiếng đến độ đến hơn bốn mươi năm sau, nhiều bài viết vẫn còn nhắc tới. Lứa anh chị tôi, nay đã bước vào tuổi sáu mươi, bảy mươi rất quen thuộc với hàng khô bò, nay gọi là gỏi khô bò, của ông già áo đen. Họ vẫn nhớ những buổi chiều chưa tắt nắng, vừa tan trường Sư phạm, trường Luật là phóng xe ra ngay góc ngã tư Lê Lợi – Pasteur, ngồi trên xe gọi mấy dĩa khô bò đu đủ cùng một lúc. Từ xa đã thấy bóng ông chủ xe khô bò, luôn luôn bận áo đen nên chết tên. Phải canh làm sao để ăn được gỏi khô bò của “ông già chemise noire” hay “ông già áo đen” này dù khu đó có tới bốn người bán gỏi khô bò đu đủ bào. Không mấy ai biết tên ông, chỉ gọi biệt danh như vậy.
 
 

 Buổi sáng cuối năm, tôi ngồi với anh Nguyễn Văn Tuynh trong một quán cà phê. Anh là con trai của “ông già áo đen” bán gỏi khô bò xưa kia. Anh Tuynh đã trên sáu mươi, còn khỏe và trí nhớ còn tốt. Đầu thập niên 1960, ba anh bắt đầu bán gỏi khô bò ở đó, chú bé Tuynh theo phụ cha suốt chín năm cho đến tuổi trưởng thành thì bị đi quân dịch. Chín năm trời trên vỉa hè là những tháng ngày đáng nhớ. Anh chứng kiến cuộc sống trên phố xá trung tâm Sài Gòn, những thay đổi của thời cuộc qua mắt nhìn của một chú bé mới lớn.
Sài Gòn thời ấy, không có nhiều hàng quán cầu kỳ như bây giờ. Không chỉ giới bình dân, cả giới có học hay khá giả cũng không câu nệ phải ăn hàng quán sang trọng mắc tiền. Do đó, các xe bán hàng ăn trên lề đường rất đông khách, có đủ cả sinh viên, thầy cô giáo, tiểu thương, công tư chức và quân nhân. Tuy nhiên, mãi đến đầu năm 1960, khu hàng ăn Viễn Đông nổi tiếng mà dân trong nghề gọi là “bến nước mía Viễn Đông” mới hình thành. Ở đó có nhiều món ăn, ngoài gỏi khô bò còn có phá lấu, bò bía, bánh ướt, bò viên, chè thạch, nước sinh tố các loại, nước ngọt... nhưng ba món gỏi khô bò, phá lấu và nước mía mới được xem là ba món chính ngon nhất Sài Gòn thời bấy giờ. Nhà thơ Cao Thoại Châu ghi lại: “Hồi còn học đại học, thường chiều hay trốn học ra vỉa hè ngã ba Pasteur – Lê Lợi. Vỉa hè
khá rộng, cây cối nhiều mà lại có tới hai thứ quà nổi tiếng. Những chiếc tủ kính nhỏ bán bò khô của người Bắc, không dát mỏng nhuộm phẩm đỏ như khô bò Chợ Lớn mà từ Hà Nội mang vào. Nó dày và mềm, màu hơi xỉn vì nướng, ăn với đu đủ sống bào thành sợi. Lách cách tiếng kéo của người bán, xuýt xoa cay của người ăn đủ dạng, đủ tuổi. Không biết cái nào có trước nhưng hai thứ quả là dìu nhau cùng nổi tiếng và đông nghẹt, bò khô ăn xong có ngay nước mía chen và đứng – nước mía Viễn Đông!”.
Ông Nguyễn Văn Huỳnh, tức “ông già áo đen” người gốc Hưng Yên, di cư vào Nam năm 1954. Lúc đầu ông ở Trị An, Đồng Nai rồi chuyển xuống Sài Gòn. Ông có người bạn làm lính partisan ở Hà Nội vào Nam bán bò khô ở các trường Chu Văn An, Nguyễn Bá Tòng. Thấy bạn làm ăn được, ông Huỳnh xin học nghề rồi cùng bán với bạn, bắt đầu từ năm 1956.
Anh Tuynh nói: “Bây giờ có người làm bò khô bằng phổi bò, phơi khô sau khi luộc chín nên rất dễ bị bẩn, sau đó thắng với nước đường. Ngày xưa, nhà tôi làm khô bằng lá lách (còn gọi bằng lá mía) bò, thịt thì bằng thịt ở má bò vì má bò có gân nên vừa mềm vừa dai, khi chín tới ăn rất thơm ngon. Lá lách bò dài như miếng gan heo, luộc chín, khứa từng khứa để khi xào nấu thì gia vị thấm vào bên trong mới ngon. Xong đem xào với sả, ngũ vị hương, muối, đường, gừng (để khử mùi nồng của lách bò) rồi đổ nước vào cho ngập mặt, đun hơn một giờ cho sệt lại. Sau đó vớt ra cho vào chảo chiên. Qua ba công đoạn luộc, xào rồi lại chiên nên mới có miếng sém cạnh, vừa bùi vừa giòn, ngon vô cùng. Khi ba tôi bán ở trường Chu Văn An, tôi mới hơn mười tuổi, buổi sáng đi học, chiều phụ bán. Ba bán sát hàng rào, học trò trường này toàn là nam sinh nhưng ăn hàng bạo lắm. Họ đưa tiền ra, ba tôi chuyền dĩa nhôm đựng gỏi bò khô chan giấm, ớt, nước tương vào. Việc của tôi là hết giờ thì leo vào cổng trường để gom dĩa nhôm mà các anh nam sinh ăn xong vất vào một góc. Giá một dĩa gỏi khô bò lúc đó là 2 đồng, gấp đôi ly nước mía”.
Đến năm 1958, ông Huỳnh ra bán ở chợ Bến Thành, góc đường Lê Thánh Tôn với Phan Bội Châu. Bán ở đó đắt khách nhưng bị lính ở bót Lê Văn Ken phía gần nhà thương Sài Gòn hốt ghế hoài nên ông nản. Sau hai năm, ông đẩy xe ra bán ở góc đường Pasteur – Lê Lợi thì tiếp tục bị đuổi. Sau khi bàn bạc với vài người bán hàng ở địa điểm này, ông đến bót Lê Văn Ken xin lập một “bến”, tức là khu tập trung buôn bán, hằng tháng đóng thuế đàng hoàng cho cảnh sát. Ông đứng ra đảm nhận việc thu tiền để nộp. “Bến nước mía Viễn Đông” chính thức được cho phép, rất thuận tiện thu hút khách dạo phố trên đại lộ Lê Lợi.
 
 

Có lần, anh Tuynh đọc được bài thơ của ông bác sĩ Lê Văn Lân: “Người về còn nhớ quà rong năm nào/ Đầu đường nghe thoáng lời rao/ Là tha hồ biết quà nào rẻ ngon/ Dăm bông, thịt nguội, mì dòn/ Hai đồng một ổ, bà con mua giùm/ Anh ơi, nước mía Viễn Đông/ Hai ly chưa đã, mát lòng em luôn/ Thêm đĩa bò bía chấm tương/ Ăn kèm phá lấu, em thương anh nhiều...”. Anh nói: “Tuy không nhắc đến gỏi khô bò ‘ông già áo đen’, nhưng mấy câu thơ này làm tôi nhớ quá...”.
Tuổi không còn trẻ, anh Tuynh vẫn đau đáu mong muốn khôi phục lại nghề gia truyền của cha. Sau 1975, vì không tiếp tục làm nghề trên lề đường Pasteur nữa nên ba anh rất buồn. Nghỉ ở nhà mới được một năm thì ông mất. Anh Tuynh sau đó đi bán bò viên trên đường Nguyễn Thông, cũng đắt khách không thua cha mình xưa kia, cho đến khi nghỉ vì lớn tuổi.
Bây giờ, dù thảnh thơi vì con cái đã trưởng thành, anh vẫn nôn nao mỗi khi nghe tiếng kéo lắt xắt nhắp trước khi cắt bò khô ở các quán gỏi khô bò trên đường Nguyễn Văn Thủ hay trước công viên Mạc Đĩnh Chi.
 Phạm Công Luận

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire