Nhà văn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyến, tác giả “ CHÂN TRỜI TÍM ” , đã tạ thế lúc 10giờ 20 sáng , Thứ Ba 15 tháng 3 năm 2022 , tại nhà riêng cư xá Nguyễn Thiện Thuật Quận 3/ Saigon. Hưởng thọ 89 tuổi.
Trước năm 1975, nhà văn Văn Quang không phải là một cái tên xa lạ. Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình. Năm 1953, động viên gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
Từ năm 1957, chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến với nhiệm vụ Trưởng Phòng Báo Chí Quân Dội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH thời đó.
Từ năm 1969 cho đến 30/4/1075, là Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội, cấp bậc Trung Tá. Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953 và tác phẩm thứ nhì là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30/4/1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh, Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ, Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Tuần San…
Trong khoảng thời gian này, Văn Quang hoàn thành hơn 50 tác phẩm in trên các báo và đã có 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm từng gây sôi nổi một thời trong giới độc giả trẻ như “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính”… và đặc biệt đã có 4 tác phẩm được chuyển thành phim từ 1962 đến 1972 là “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.
Các tác phẩm của Văn Quang có thể phân thành 4 nhóm đề tài: mô tả cuộc sống tuổi trẻ, phản ảnh đời sống quân ngũ, phản ảnh thực đời sống thời chiến và những châm biếm những lề lói thời thượng lố lăng thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.
Sau 30/4/1975, cũng như mọi sĩ quan quân lực VNCH khác, Văn Quang bị đưa qua nhiều trại tù từ miền Nam tới miền Bắc trong thời gian dài hơn 12 năm.
Tháng 9 năm 1987, được thả ra khỏi trại tù, Văn Quang trở về Sài Gòn và từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam.
Năm 1990, Văn Quang bắt đầu trở lại với việc sáng tác văn nghệ và “Ngã Tư Hoàng Hôn” là tác phẩm đầu tiên được hoàn thành sau nhiều năm bị “treo bút”. Tác phẩm này, đã được một số thân hữu của nhà văn Văn Quang tổ chức ra mắt tại Thung Lũng Hoa Vàng vào ngày 21/10/2001 vừa qua. (Trích phần giới thiệu về tác giả trong “Ngã Tư Hoàng Hôn”)
Từ năm 1992 tới nay Văn Quang là cộng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại như báo Chiêu Dương tại Australia, báo Người Việt, Thời Luận của nhà văn Đỗ Tiến Đức tại Nam California và Tiếng Vang, tại Sacramento…
(E.E - Emprunt Empreinte - Mượn Dấu Thời Gian)
Nhà văn Văn Quang
Người ở lại Sài Gòn.
Vào tháng Tư -1975 hai chữ “ đổi đời” đột ngột đến với nhiều số phận khác nhau, đúng như câu
“ Kẻ lên voi, người xuống chó”. Hàng trăm ngàn người dân miền Nam không chỉ phải “ xuống chó” theo nghĩa bóng mà bị đổi thật sự qua kiếp khác, kiếp “ vượn người“.
Khi thoát khỏi chốn rừng xanh, nơi ẩn náo không biết bao nhiêu trại cải tạo, bỗng chốc người ta được trở lại kiếp người, dù không hẵn đã là “ người tự do”. Người ta chỉ cảm thấy thật tự do khi thoát khỏi Việt Nam. Tự do đó rất đắt giá, vì phải đánh đổi bằng cả tài sản, sinh mệnh, luôn cả quê hương.
Nhưng
có một người đã từ chối đến chốn Tự Do, nơi hàng trăm ngàn người đang
mơ ước, vào thời điểm trên, để giử lại cho riêng mình một thành phố.
Để được sống cùng niềm vui, nỗi buồn và gửi nhịp thở thành phố đó ra chốn tự do.
Sau 1975, nhà văn Văn Quang đã bị đưa qua nhiều trại tù từ miền Nam tới
miền Bắc trong khoảng thời gian dài hơn 12 năm. Sau khi ra tù, dù được
bảo lãnh đi theo diện HO, ông đã từ chối, để ở lại Sài Gòn.
Giải thích lý do lựa chọn trên, ông đã nói :
“Cuộc
sống “lên voi, xuống chó” quay quắt, nếu nhìn như một kẻ ngoài cuộc, nó
sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ bi hài kịch thú vị. Có quá nhiều
đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm một nhân chứng sống có lẽ hay hơn.
Và cũng vì sự “gặm nhấm” của tôi về “người bạn đồng minh” nên tôi quyết
định ở lại.” (Gió O phỏng vấn nhà văn Văn Quang-2007)
Với
cuộc đời viết văn gần 60 năm cầm bút, trong đó hơn 30 năm viết “chui”
dưới chế độ XHCN, với hàng nghìn bài viết, hàng tháng, hàng tuần gửi đều
đặn ra hải ngoại, trong các mục “Lẩm cẩm Sài Gòn Thiên Hạ sự “ hay “
Văn Quang viết từ Sàigòn” đã tạo nên tầm vóc
của “ Người ở lại Sài Gòn”.
Cuộc sống sau 75 được tô vẽ như một “Chân trời hồng cách mạng” từ từ sậm màu đỏ máu.
Giữa xã hội rực lửa một màu đỏ, màu tím bị kết tội là màu của “ tiểu tư sản”.
Trong hoàn cảnh như thế, còn ai dám nhắc chi đến “ Chân trời tím” cùng những ngày tháng cũ xa xưa trước 75.
“Anh
yêu những chân trời tím. Màu tím của thắm thiết yêu đương. Của hai đứa
chúng mình đi vào tình yêu, đi vào kỷ niệm. Anh sẽ đưa em tới đó. Anh sẽ
sống bên em như màu tím và chân trời, nhưng anh biết không bao giờ,
không bao giờ chúng ta tới đó…”
Ước mơ
vừa chớm nở đã ẩn hiện mối tuyệt vọng não nề trong “Chân trời tím” phải
chăng không chỉ là số phận của nhân vật trong truyện mà đã là định mệnh
tàn khốc dành cho nhiều người Việt Nam sau 75, ly tan, chia lìa để trọn
đời ôm muôn vàn thương nhớ khôn nguôi.
Qua bao năm tháng dù bị vùi dập, bị xóa nhòa trong xã hội mới, “ Chân trời tím” vẫn còn đó như một giấc mơ đẹp và buồn.
Sau cùng “ Chân trời tím” đã chính thức xuất hiện trở lại qua bản in vào năm 2006 của NXB Tiếng Quê Hương.
Giữa
cảnh hỗn mang của một xã hội „dở dở ương ương tiến lên Xã hội chủ
nghĩa“, ngòi bút của Tuổi trẻ, Tình yêu, Thân phận, Xã hội trước 75 đã
chuyển ngoặc qua giai đoạn tàn khốc dữ dội . Xã hội bây giờ không còn
chiến tranh nhưng có nhiều cảnh chém giết, tàn nhẫn hơn cả trên chiến
trường, cùng nhiều chuyện “ khó tin nhưng có thật“ .
Chỉ đọc đề tựa vài bài phóng sự của ” Văn Quang viết từ Sài Gòn”,
người ta đã thấy bộ mặt trăm chiều lầm than, khốn khó của “ hiện thực
xã hội” hoàn toàn không có màu tím, có chăng chỉ một màu đen:
“… Xã hội đen, xã hội đỏ „, „Người nghèo phải chết „, „Một kiểu tra tấn quái đản nhất thời đại“, „Chỉ có người dân cười không nổi“, „Án bỏ túi áo” và “án bỏ túi quần”,“ Thuế nuôi vịt“ vv..
Giữa lúc nhiều ngòi bút lặng câm, bặt tiếng hay chỉ viết vu vơ những dòng thơ, văn “ ru mình, ru đời”, giữa thời buổi báo chí, văn nghệ bị kiểm soát, canh giữ khe khắt, nhà văn Văn Quang đã không ngần ngại cầm bút viết về các đề tài “ nhạy cảm”.
“Vâng,
tôi sống như vậy đấy. Chẳng có gì phải che giấu, chẳng có gì phải khiếp
sợ nữa. Còn gì nữa đâu mà khiếp sợ và tôi không làm điếu gì xấu, không
“phá hoại”… thì cứ lừng lững mà làm. “Danh chính ngôn thuận” và “đường
ta ta cứ đi”. Cái gì có thật thì tôi viết. Không bới móc lung tung,
không phao tin đồn nhảm. Quyền phê phán là của người dân. Quyền bất bình
cũng là của người dân về những điều có thật đã và đang xảy ra.”
(Gió O phỏng vấn nhà văn Văn Quang-2007)“
Đánh dấu bước “ đổi đời” trong sự nghiệp cầm bút của ông là tác phẩm đồ sộ mang tên
“ Lên Đời” , thiên phóng sự về những ” đổi đời trên quê hương”,
gồm 2 quyển sách, hơn ngàn trang giấy, với những cảnh “lên voi, xuống
chó” tại Viêt Nam sau 75.
Qua đó nhà văn Văn Quang đã là nhân chứng sống, người quan sát, nhà văn
với tấm lòng yêu đồng bào, yêu xã hội, yêu nơi chốn mình đang sống, đặc
biệt là tình yêu dành cho thành phố Sài Gòn, đã được khắc ghi qua bút
ký “ 60 năm Sài Gòn trong tôi”.
Trong những ngày tháng ở lại Sài Gòn, ông có niềm vui qua từng buổi gặp
lại bạn bè hòa quyện với nỗi đau khi “Chỉ trong 7 ngày 3 người bạn ra
đi”.
Tuổi đời như ít hơn so với những muộn phiền chồng chất khi phải nhìn
cảnh SàiGòn đổi thay. Phải nhìn từng góc phố, con đường, chốn thân quen
bị tàn phá, đập bỏ, để nhiều ngày không còn muốn bước chân ra đường.
Đọc những bài phóng sự về hiện trạng xã hội ở Việt Nam, với từng hình ảnh chắt chiu, tỉ mỉ minh họa đến từng chi tiết, nhiều người đọc không hề biết, đó là công sức của một người cầm bút đã bước qua tuổi 80.
Niềm an ủi của nhà văn Văn Quang hiện nay có lẽ là những buổi phát hình chương trình thể thao bóng đá, quần vợt. Ngoài hàng ngàn bài viết phóng sự diễn tả cuộc sống xã hội muôn chiều, ông còn có nhiều bài viết hiếm quý tường thuật sinh động, hào hứng, am hiểu về đá banh, gói ghém tình yêu bóng đá qua ngòi bút một nhà văn. Từ đó người ta cũng thấy ông không chỉ là một nhà văn mà thật sự là một phóng viên lão luyện trong làng báo chí Việt Nam. Dù ngòi bút như “ không có đất sống“ , không có lương, những thiên phóng sự của ông sau 75 sẽ sống mãi trong lòng hàng triệu độc giả „online“, trong mạng ảo với những cảnh thực của „hiện thực XHCN“.
Khi nghĩ về ông, về “ Anh Hai Bàn Cờ“, tôi thường nhớ đến “Ngã tư hoàng hôn”, tựa đề tác phẩm ông viết ngay sau khi thoát chốn lao tù và là một trong những quyển sách đầu tiên của Tủ sách Tiếng Quê Hương.
Qua “Ngã tư hoàng hôn” độc giả hẳn phải ngạc nhiên trước sức sống bừng dậy của ngòi bút tưởng phải cạn kiệt sau 12 năm bị giam hãm chốn tù đày.
Vẫn còn đó tình người vượt lên trên lòng hận thù, đưa chút ánh sáng hy vọng đến những cảnh đời bi đát .
Nhiều nhà văn lớn Miền
Nam trước 75 như Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh… đã viết
về xã hội đen, về những mảnh đời giang hồ, về kiếp “ ngựa hoang”, đôi
khi quá tàn khốc, dữ dội như khắc câu “ hận đời đen bạc” lên những
trang giấy.
Qua các tác phẩm của nhà Văn Quang, dù được viết trước 75 hay sau 75,
tính nhân bản, thuần lương, lương tâm, lẽ phải… luôn có trên từng trang
sách, để người ta có thể tiếp tục hy vọng, tiếp tục cất bước, dù thật
phân vân, không biết đi về đâu, vì như đang đứng giữa “ Ngã tư hoàng
hôn”.
Dương Hoàng Mai
Munich.
22.05.2015
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire