samedi 10 juin 2023

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

nguyenducson3thumb-622.jpgMột trong bốn tứ trụ thơ

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn sinh năm 1937 tại Dư Khánh, Ninh Thuận. Ông còn được biết qua bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông làm thơ rất sớm và đã in ra nhiều tập thơ và truyện ngắn từ đấu những năm 60 cho tới năm 1973. Ông có bài viết đăng trên những tạp chí hay các tờ chuyên đề rất nổi tiếng của miền Nam như Thế Kỷ Hai Mươi, Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ…
Giới văn nghệ miền Nam lúc ấy xem ông là một trong bốn tài năng thi ca mà có người gọi là tứ trụ thơ gồm: Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên. Bên cạnh đó ông còn nổi tiếng với tính lập dị và rất nhiều người cho rằng ông với Bùi Giáng và Phạm Công Thiện nhập lại thành những dị nhân trong văn học.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (Mặc Lâm, biên tập viên RFA) 

hơ Nguyễn Đức Sơn hầu như trái lại với cá tính của ông một cách đáng ngạc nhiên. Nếu khi nói ông thường tỏ ra bất cần đời thì khi viết ông lại trân trọng, trau chuốt từ con chữ một, ngay cả con chữ có dáng vẻ không thanh bai, cao quý mà nhiều nhà thơ tránh né ông vẫn dùng chúng một cách thông minh, hóm hĩnh và không thiếu chất triết học trong ấy.
Là bạn với Phạm Công Thiện và Bùi Giáng, ba người chia sẻ với nhau những khác biệt nhưng cũng ôm ấp nhiều cái chung mà đôi lúc chính họ không nhận ra. Phạm Công Thiện lừng lững đi vào triết học nhìn hiện tượng tồn sinh như một bất chấp của con người trong lúc vẫy vùng để sống. Bùi Giáng đam mê cái bóng chính mình trên những vuông giấy lạnh lẽo dơ bẩn của bụi đường, của rác rưởi cuộc đời, trong khi đó Nguyễn Đức Sơn ngong ngóng nhìn đời, nhìn mình với những câu hỏi vừa ngây thơ vừa cao siêu không lời giải thích. Sơn bỏ chạy khắp bốn phương, giạt trôi như rơm khô trên từng con rạch cuộc đời mà hành trang chỉ là những thanh âm ngọng nghịu, không đủ để trở thành một tuyên ngôn của kẻ bỏ cuộc nhưng trong từng bài thơ của ông vẫn còn đó những dáng dấp của một thời hưng phấn:
“Chửi ông cố nội tôi, chửi cha tôi tôi không giận chứ nói tôi giống Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, nhất là Bùi Giáng (nha… nha…) tôi mừng lắm mà tôi tin rằng Bùi Giáng nếu mà còn sống sẽ không đụng gì với tôi cả mà sau ngày phỏng dai…sau ngày giải phóng thì chính Bùi Giáng đã phá cái luật đó (nha… nha…) chứ tôi coi Bùi Giáng là cái thằng này ba sạo quá (cười) ạo quá đi, sạo quá mà. Mà quần chúng xin lỗi chứ nó ngu quá đi nó tường như vậy là hay (nha… nha…) Thằng Phạm Công Thiện hồi đó hồi trước giải phóng đi qua Mỹ lái máy cày mà nổi tiếng (cười). Nói tắt tôi định viết nhiều chuyện nhưng chưa được phép nói ra đây chắc có lẽ không đến nỗi xuống lỗ rồi mới viết.”
Những lời lẽ giỡn hớt, đùa bỡn của nhà thơ như đọng lại một nỗi niềm mà nếu tinh ý người nghe có thể nhận ra trong đó là giễu cợt chính mình qua những khuôn mặt cố tri một thời cùng sống. Giễu cợt cả mình và cả thiên nhiên khi chạm phải sự dữ dội lạnh lùng của trời đất. Bài thơ “Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi” có lẽ đáng là một đặc trưng cho tính cách Nguyễn Đức Sơn:
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
Nguyễn Đức Sơn không phải lúc nào cũng “luồn vô luồn ra” như một thiền sư, rất nhiều lúc ông lặng lẽ làm một công việc mà bất cứ một chàng trai nào cũng từng làm, mơ mộng và yếu đuối trước giai nhân:
Một đêm trăng mờ ảo
anh tìm về thăm em
phố buồn như hoang đảo
gió ngừng ru bên thềm
ánh đèn sao le lói
căn phòng sao đìu hiu
anh lặng người thầm hỏi
kiếp người sao tiêu điều
Anh đi vòng sau nhà
một mình như bóng ma
giật mình anh nghe thấy
có tiếng gì bay xa
Rồi đêm trăng mờ ảo
anh lại về thăm em
như lá vàng lảo đảo
anh lui về trong đêm
Nhà thơ, người luôn thắc mắc với trời đất, với sự quanh hiu lẫn mang mang hư vô của cõi nhân gian. Hãy nghe Nguyễn Đức Sơn diễn tả cái xúc cảm mang mang ấy:
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không

Chủ đề quê hương

 

Nếu nhắc tới thi sĩ từ thập niên 40 trở về sau mà không nhắc tới chủ đề quê hương của họ thì thật có lỗi. Nguyễn Đức Sơn cũng không ngoại lệ. Khi nói tới quê hương hình như bất cứ thi sĩ nào dù ngông nghênh cách mấy cũng thấy lòng lắng xuống nhường chỗ cho những dịu dàng, trân quý nhất dành cho nó. Nguyễn Đức Sơn hỏi han, vỗ về và nhắc lại kỷ niệm như một cậu bé về làng hơn là một gã thi sĩ điên khùng nói về quê cũ:
Tháng bảy dì về đơm nhãn
nhớ mang ra ít giạ chiêm
ruộng xưa cò bay thẳng cánh
gặt hái vừa độ trăng liềm
mười mấy năm rồi dì nhỉ
lạc loài xa mãi cố hương
giờ đây ngồi mà suy nghĩ
lòng dạ ai người không thương
quê mình ai còn ai mất
đi rồi gươm súng mùa thu
khóc mãi từng đêm lưu lạc
nói ra thêm oán thêm thù
ngõ về làm sao ngài ngại
xe cộ có dễ dàng không
kháng chiến người đi chưa lại
lúa khô héo cả ruộng đồng
ông ngoại chắc già ghê lắm
mấy người dì nữa nhưng thôi
đất cằn quê hương nứt rạn
kể thêm đau lòng dì ơi
dù sao cũng là xứ sở
đói nghèo đừng lạt tình thương
mười năm không cúng không giỗ
dì về ấm lại khói hương
tháng bảy dì về đơm nhãn
nhớ mang ra ít giạ chiêm
ở đây làm gì có bán
thấy người ta ăn bắt thèm.
Đôi lúc Nguyễn Đức Sơn có nét tương đồng với Nguyễn Bính, hết tâm sự với người dì tới nhỏ nhẹ hỏi han tới chị. Trong từng khuôn chữ ấy người đọc gợn lên mối cảm hoài mà nhiểu chục năm sau không còn thấy nữa.
Giữa mùa nắng vàng hiu hắt
Về đây đôi mắt dịu hiền
Về đây cả bàn tay đẹp
Đi tìm thăm xứ người em
Ngõ hẹp lối vào gác trọ
Chiều trưa nhạt nắng bên thềm
Bỗng dưng sao lòng se thắt
Vương vương đếm mấy nỗi niềm
Gặp nhau sao mà không nói
Tuổi hiền mà cũng lao đao
Ơ kia làm sao chị khóc
Tình em vẫn như dạo nào
Chị bảo rằng đây mưa nắng
Bốn mùa em có buồn không
Em cười làm sao cay đắng
Chị ơi lệ ở trong lòng
hi sĩ, những kẻ nghịch đời. Cuộc sống chung quanh của một thi nhân hình như được tạo hóa nặn ra cho một mình anh ta. Cành hoa lìa cuống cũng làm họ khóc huống chi cả một cuộc phân lỳ và hơn thế là cuộc chiến tương tàn. Nguyễn Đức Sơn sinh ra trong thời đại của đói nghèo ly tán cùng chết chóc lầm than của chiến tranh, bằng ấy thứ cộng lại trên đôi vai người Việt khiến ông như hầu hết các thi sĩ khác tất cả đều có chung một ước mơ, ước mơ thanh bình. Vậy mà cách diễn đạt cái ước mơ ấy của Nguyễn Đức Sơn cũng rất khác với mọi người. Cái khác ấy làm nên một Nguyễn Đức Sơn khác biệt.
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên
Sau 30 tháng 4 cuộc đời nhà thơ đổi thay cùng với sự trở mình của đất nước. Trong môi trường đầy biến động ấy có thể làm nhà thơ dị thường thêm một chút, cay đắng hơn một chút nhưng hình như người đọc thấy sự dí dỏm tinh đời trong từng nhận xét của ông qua cách ông nhỉn một giai cấp mới, giai cấp đảng viên. Trong bài: “Tâm sự với một Đảng viên trí thức muốn ra khỏi Đảng” ông viết:
Anh đi cách mạng bao năm
Từ rừng đến phố dao găm chưa xài
Vẫn chưa dứt điểm sòng bài
Tấm thân ê ẩm khuya dài đau sao
Cứ yêu tha thiết đồng bào
Tuy nhiên hễ thấy máu trào thì ngưng
Trả lời tạp chí Bách Khoa trước năm 1975 Nguyễn Đức Sơn thú nhận: "Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Ðó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết."
Hơn 40 năm sau Nguyễn Đức Sơn hình như không còn cái hạnh phúc của “đi lên đi xuống” đó nữa, ông trả lời cùng một câu hỏi của trước đây 40 năm mà như tự hỏi lại mình:
“Tôi ngay bây giờ tôi định làm chương trình một bãi thơ lớn lắm, bãi thơ không phải bãi c..không biết có được không (nha… nha…) bây giờ không thể trả lời ngắn được. Tôi không biết tôi viết cho bây giờ hay cho mai sau, tôi không biết được đâu vì nói sao cũng đúng hết mà nói sao cũng trật hết (nha..nha..) Bây giờ tôi đang đứng giữa đồi lên nhà xa lắm mà móc cái điện thoại ra từ trong túi áo, kim băng (nha… nha…) cây kim băng còn dính lòng thòng…
Tôi chỉ muốn làm một người bình thường thôi ngay những người Mỹ tới đây tôi dã dặn trước con cái đừng cho họ vô nhà (nha… nha…) để cho họ khỏi hiểu lầm gì hết tôi muốn bình yên. Hiện bây giờ tôi đang bị giời leo cái bệnh ở dơ trong bụi bặm, giời leo nó khó chịu vô cùng bây giờ nhức nhối đôi khi bực bội không thể chịu được. Giời leo nha anh biết không?  Không phải bà leo không phải trời leo nha…”
Nguyễn Đức Sơn có thể là một dị nhân của thi ca Việt Nam qua tính cách, đời sống cũng như nói năng trong ngôn ngữ đời thường, tuy nhiên ông không thể là một dị nhân trong sáng tác của mình vì trong mỗi vuông đất thi ca của riêng ông con người Việt Nam thấy in đậm bóng của họ trong đó. Thơ ông không tách ra khỏi cuộc đời để trở thành dị thường, nó bình thường dễ cảm và đáng ngạc nhiên nhất là rất đậm chất trữ tình của những tâm hồn dân giã.

http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/poet-nguyen-duc-son-ml-05232015072118.html
*
*     *

tịch mạc

Tác giả: Nguyễn Đức Sơn
rồi mai huyệt lạnh anh về
ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
trăng tà đổ bóng cây thưa
mộng trần gian đã hái vừa chưa em

(Lời ru) 
*

mai kia

Tác giả: Nguyễn Đức Sơn
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

(Văn, Sài Gòn)
  *

tôi thấy mây rừng

Tác giả: Nguyễn Đức Sơn
một ngày đau khổ chín trong tôi
tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
cây thả trái sầu trên nước lắng
mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi

thôi nhé ngàn năm em đi qua
hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
trời sinh ra để chiều hôm đó
tôi thấy mây rừng bay rất xa

(Những bài tình đầu - Bọt nước) 
*

đêm thu

Tác giả: Nguyễn Đức Sơn
một đêm trăng mờ ảo
anh tìm về thăm em
phố buồn như hoang đảo
gió ngừng ru bên thềm
ánh đèn sao le lói
căn phòng sao đìu hiu
anh lặng người thầm hỏi
kiếp người sao tiêu điều

anh đi vòng sau nhà
một mình như bóng ma
giật mình anh nghe thấy
có tiếng gì bay xa

rồi đêm trăng mờ ảo
anh lại về thăm em
như lá vàng lảo đảo
anh lui về trong đêm

(Hoa cô độc)
  *
*     *
Sự thật về “Người trồng thông quái dị”  

Trước 30 tháng 4, 1975, và bây giờ hẳn cũng vậy, rất nhiều người đã xem Bùi Giáng - Phạm Công Thiện - Nguyễn Đức Sơn là ba “kỳ nhân văn nghệ”; ba con người văn nghệ độc đáo, đặc dị, và lừng danh trong văn hoá - văn nghệ của Miền Nam tự do. Ở thị xã Bảo Lộc - tỉnh Lâm Đồng, người ta gọi Nguyễn Đức Sơn là “Người trồng thông quái dị”. Chúng tôi là bạn thân thiết với Nguyễn Đức Sơn từ những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Cuối thập niên 70, rời chùa Tây Tạng ở thị xã Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương, Nguyễn Đức Sơn đưa gia đình lên cư ngụ trên trái đồi có Phương Bối Am của Thượng toạ Nhất Hạnh, hoang phế từ nhiều năm. Là người cầm bút, lại chỉ để sáng tác thơ, từ lúc ở Thủ Dầu Một, Nguyễn Đức Sơn chỉ biết mưu sinh bằng cách dạy kèm ngoại ngữ. Phượng, người bạn đời của nhà thơ, lúc đó sống nương nhờ dưới mái chùa Tây Tạng; Phượng là cháu vị sư trụ trì chùa này; ngôi chùa được xây dựng theo phong cách chùa chiền ở Tây Tạng.
Cuộc sống của Nguyễn Đức Sơn trên trái đồi nằm cuối dãy núi Đại Lào hẳn nhiên là cuộc sống của người làm rừng làm rẫy, bám vào cỏ cây nương rẫy mà sống. Chúng tôi từng chứng kiến, Nguyễn Đức Sơn đẩy chiếc xe đạp cọc cạch, thồ đống củi cao hơn thân mình, từ đồi rừng ra chợ cách xa gần mười cây số để bán. Chỉ có cách kiếm sống như vậy, cho một gia đình đông con; làm sao Nguyễn Đức Sơn, với vợ yếu và đàn con thơ dại, không nhếch nhác tơi tả? Nhà thơ Thái Ngọc San, đã mất, sau khi lên thăm Nguyễn Đức Sơn ở đồi Phương Bối (tên do thầy Nhất Hạnh đặt), đã viết truyện ngắn “Bầy Thú Hoang Dã”, cho thấy cảnh sống của gia đình Nguyễn Đức Sơn lúc ấy không khác biệt bao nhiêu với đời sống của loài thú rừng. Hiển nhiên, qua cách nhìn nhận như Thái Ngọc San ở truyện ngắn này, là chỉ ghi lại cái bề mặt của cuộc sống Nguyễn Đức Sơn; và mặc nhiên với những trách cứ phê phán của người quan sát thiếu tâm tình.
Từng gần gũi Nguyễn Đức Sơn nhiều ngày tháng, chúng tôi hiểu rõ nhà thơ Nguyễn Đức Sơn không hề có dã tâm của loài thú, để tạo nên cuộc sống như Thái Ngọc San đã ghi nhận; đó chỉ là một cuộc sống cực-chẳng-đã phải như vậy mà thôi, muốn khác đi cũng không được. Nguyễn Đức Sơn không biết làm gì khác để thay đổi cuộc sống như bầy-thú-hoang-dã; ông lại càng không thể tính toán, bon chen, giành giựt với nhân thế. Trên trái đồi rộng bốn - năm héc-ta, ông không biết và cũng không ưa trồng loại cây nào cho có lợi nhuận, ngoài cây thông mà ông yêu thích. Cũng vì Nguyễn Đức Sơn chăm chút, nuôi trồng thông từ mấy chục năm nay, trái đồi mang tên Phương Bối ở thôn Đại Lào - xã Lộc Châu, bây giờ gần như là nơi duy nhất để ngàn thông còn tồn tại trên cao nguyên hoang sơ Bảo Lộc.
Nguyễn Đức Sơn đã bảo vệ tới cùng một tổ chim trên cây rừng Phương Bối bị đám người có hung khí tới phá phách. Lần đó Nguyễn Đức Sơn bị đám người này dùng dao đâm ông, chỉ nửa phân nữa là trúng con mắt. Dân cư quanh vùng biết Nguyễn Đức Sơn lúc nào cũng ưa đọc sách, nhưng thấy ông không cho các con ông đi học; biết ông, nửa đêm lạnh giá, xách đèn pin đi khắp đồi thông; nghe tiếng ông la hét cằn nhằn vợ con vang dội khắp bốn bề; nghe chính con ông kể chuyện những kiểu tra tấn đánh đập vợ con: treo con lên xà nhà; bắt lũ con nằm thành hàng để ông đi xe đạp cán qua; bóp cổ vợ; đập gậy sau lưng khi vợ đang vo gạo... Từ những chuyện như vậy, ông nổi tiếng là “Người trồng thông quái dị”; kinh khủng nhất, mọi người cho là ông vô tâm, tàn ác, không mảy may thương xót vợ con. Đây là một ngộ nhận đáng sợ đối với bất cứ người nào; huống hồ người đó lại là một nhà thơ.
Không có chuyện tra tấn đánh đập vợ con như một hai người con của Nguyễn Đức Sơn đã nói; đấy là câu chuyện hoang tưởng của con ông mà thôi; chính Phượng xác nhận với chúng tôi như vậy. Nhưng nếu ai hỏi Nguyễn Đức Sơn chuyện này, thì ông lại xác nhận; không những như thế, ông còn tô vẽ thêm lên cho thật ghê rợn. Đây chính là một trong nhiều tính chất đặc dị của nhà thơ “kỳ nhân” Nguyễn Đức Sơn.
Sự thật mà chúng tôi biết, Nguyễn Đức Sơn đầy tình cảm yêu thương con người, như mọi người thiện tâm khác. Lần Phượng bị bệnh thập tử nhất sinh, phải giải phẫu tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi ngồi bên ông, ngoài hành lang trước phòng giải phẫu. Ông rất căng thẳng chờ đợi kết quả phẫu thuật. Chợt có tiếng cô y tá kêu lớn tên ông: nước mắt ông tuột ra, chảy dài trên khuôn mặt. Ông ngỡ cuộc phẫu thuật thất bại, Phượng đã chết! Hoá ra không phải, cô y tá gọi ông để báo tin lành. Và Nguyễn Đức Sơn cẫng nhảy lên, như đứa trẻ vui mừng tột độ.
Lần một đứa con của Nguyễn Đức Sơn bị bệnh nằm liệt giường, chúng tôi cũng có mặt trên đồi Phương Bối. Ông cuống cuồng, chạy xuống đồi, hỏi người này người kia để chữa chạy kịp thời cho con. Có người bày cách, cho người bệnh ăn thịt cóc sống. Ông hét vang như hoá điên, vì gặp ngay người bán thịt cóc đi ngang qua. Mang thịt cóc về, cho đứa con ăn ngay; chợt ông nhớ cả gia đình vốn ăn chay trường, ông vội vã thắp nén nhang niệm Phật, xin xá tội! Đứa con vừa nuốt miếng thịt cóc, lập tức nôn mửa thốc tháo. Ông lại cuống cuồng, lại chạy xuống đồi, kêu “xe ôm”, ôm con ngồi lên xe đưa vào bệnh viện. Ở bệnh viện, lúc đứa con đã an toàn, đã đi đứng trở lại; bấy giờ mới để ý: ông chỉ mặc cái quần cụt mà lại thủng rách cả đũng! Nhưng Nguyễn Đức Sơn lúc đó vui rộ lên, nói lắp bắp những câu hí lộng về cái quần thủng rách!
Chúng tôi biết cả ba người văn nghệ độc đáo nhất của Miền Nam tự do, ba “kỳ nhân văn nghệ” như nhiều người đã gọi: Bùi Giáng - Phạm Công Thiện - Nguyễn Đức Sơn. Cả ba đều thương yêu hết mức con người. Bùi Giáng thì đã giã biệt cõi-hồng-trần từ lâu; Phạm Công Thiện mới qua kiếp nhân sinh, chắc hẳn lúc này hương hồn ông đã nhập vào con bướm trắng tung tăng trên cỏ. Và Nguyễn Đức Sơn, lúc nào chúng tôi cũng hình dung ông đang chống gậy, đi mải miết giữa những hàng thông trên đồi Phương Bối; hình dung ông Ngàn sau / Phơ phất gò bông lau. 

http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=70435851220BD25B0D6BE8D11867A8C5?action=viewArtwork&artworkId=12512


Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire