lundi 20 mai 2019

44 NĂM SAU, NHÌN LẠI MỐI ĐAU - Phan Nhật Nam

Dẫn Nhập 
Mỗi người, mỗi tập thể, mỗi dân tộc có một đời sống, lần chết với định mệnh riêng. Dân tộc Việt cảm nhận, thấy ra sự huyền nhiệm kia qua con Số Ba: Lễ thờ cúng với phẩm vật Tam Sanh; nhà Ba Gian; Ba Miền Bắc, Trung, Nam; Cờ Quẻ Ly; Cờ Vàng Ba Sọc…

Người Việt thấu hiểu cốt lõi cấu trúc siêu hình, lẽ huyền vi kia qua Nỗi Đau và Cơn Thống Khổ vô lường với thân phận của mỗi người trên quê hương điêu linh qua những Tháng Ba của năm 1972,  1975. Người Việt hải ngoại vừa qua Tháng Ba, đang ở Tháng Tư, 2019, những thời điểm khiến nhớ lần vỡ trận Ban Mê Thuộc, 10 Tháng Ba, 1975, khởi đầu bi kịch nước mất nhà tan năm mươi lăm ngày sau, 30 Tháng Tư, 1975.
Nay 44 năm sau 1975, thời gian đủ để nhìn lại sự việc của quá khứ từ đó nhận ra những tất yếu của lịch sử. Những điều tất yếu mà dân tộc Việt buộc phải nhận lãnh từ phận nghiệp điêu linh. Những thế hệ người Việt sinh nơi miền Nam, lớn lên sau 1975 phần đông trên đất Mỹ có thể ngạc nhiên với thắc mắc: Tại sao một miền Nam có đủ tất cả những ưu thế so với với miền Bắc, cụ thể thuộc về phe dân chủ-tự do được Mỹ và Tây Âu yểm trợ, giúp sức. Vậy thì từ đâu, vì sao, VNCH chỉ một sớm một chiều sụp vỡ một cách nhanh chóng sau 55 ngày do Bắc Việt Cộng Sản tấn công? Tại sao? 
Một.
Tháng Ba mở đầu mùa Hè khốc liệt 1972; và Tháng Ba sau ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình 27 Tháng Giêng, 1973, mà hai tháng sau 27 Tháng Ba, 1973, là hết thời hạn thi hành giai đoạn bốn bên, và miền Nam bắt đầu nhận chịu số phận khốn đốn khi tỉnh Phước Long bị Cộng Sản lấn chiếm, Tháng Mười Hai, 1974, cùng lúc viện trợ Mỹ bị cắt giảm toàn diện, Hạm Đội 7 quay mũi về Trung Đông. Qua đầu Xuân Tháng Ba, 1975, thêm một lần miền Nam phải giáp mặt với câu hỏi… Bao giờ Cộng Sản tấn công? Cộng Sản sẽ tấn công ở đâu? Không ai ở Sài Gòn có câu trả lời chính xác.
Đầu năm 1975, phía Cộng Sản Bắc Việt đã nối được con đường từ Cao Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 nối Bình Định – Pleiku như đã thực hiện trong chiến tranh 1946-1954. Và đây là tiền đề của cuộc Tổng Công Kích 1975 mà Hà Nội đã quyết thực hiện bước cuối cùng để tiến chiếm miền Nam?
Bây giờ thì ai cũng thấy ra như thế, nhưng lúc ấy, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, cụ thể với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II ở Pleiku, lúc ấy không thể có quyết đoán cụ thể nào khi từ năm 1972, phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, cứ điểm Đắk-tô, quận lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của binh đội miền Bắc.


Đầu năm 1975, Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng Cộng Sản, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Bắc Việt chuẩn bị tấn công miền Nam sau khi rút kinh nghiệm thất bại từ Mậu Thân 1968, do đã quá phân tán lực lượng trên mục tiêu trải dài qua 40 tỉnh, thành phố miền Nam. Cụ thể trong Tổng Công Kích Xuân – Hè 1972, cuộc tấn công đã không hoàn tất mục tiêu chiến lược là đánh sụp toàn bộ hệ thống quân sự-chính trị-hành chánh của VNCH, để yểm trợ chính trị cho Hội Nghị Ba Lê đang ở thời điểm quyết định trước khi ký kết (27 Tháng Giêng, 1973). Quan trọng hơn hết, vào Tháng Ba, 1975, người Mỹ đã thực sự rút chân ra khỏi Việt Nam.

Cũng không phải đợi năm 1975 mà từ những năm 1972, và cũng chẳng phải là chuyên viên quân sự-chính trị chiến lược cao cấp, chỉ người có lưu tâm đến thời cuộc, chiến cuộc cũng có thể nhìn thấy tình hình quân sự nguy ngập của miền Nam.
Từ sau trận chiến mùa Hè 1972 một phần cực Bắc của Cao Nguyên Trung Phần, gồm cứ điểm Darkto, quận lỵ Tân Cảnh, dãy Căn Cứ 5, 6, các trại lực lượng đặc biệt đã thuộc về vùng kiểm soát của Cộng Sản miền Bắc. Có nghĩa Bắc quân đã nối được con đường từ Cao Nguyên Trung Phần xuống đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, lộ rõ ý định cắt đôi miền Nam theo trục quốc lộ 19 Bình Định – Pleiku như một lần thực hiện trong chiến tranh 1946-1954.
Nhưng không chỉ có thế, năm 1975 Bộ Chính Trị, Bộ Tổng Quân Ủy Đảng Cộng Sản Việt Nam đã điều quân dưới Nghị Quyết chiến lược số 21 (Nghị quyết nầy được Trung Ương Cục Miền Nam phổ biến với bí số 12).
“Cuộc tấn công toàn diện ở miền Nam Việt Nam phải được thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt trên khắp ba vùng…” Ba mũi là tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn công binh vận. Ba mặt, diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao. Ba vùng gồm vùng Cộng Sản đã kiểm soát được; vùng tranh chấp (xôi đậu); và vùng Việt Nam Cộng Hòa.
Với chỉ đạo chiến lược nầy, Cộng Sản Bắc Việt lập kế hoạch tấn công lật đổ chế độ VNCH sau khi đã rút kinh nghiệm từ Mậu Thân 1968, và trận chiến Xuân-Hè 1972, để năm 1975 có đủ ưu thế vượt trội về quân sự cùng an toàn tuyệt đối về chính trị. Chúng ta cùng đi tiếp lần sụp vỡ miền Nam bắt đầu từ Tháng Ba, 1975. 
Hai.
Mặt Trận B3 là bí danh quân sự phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ Vùng Cao Nguyên Trung Phần của VNCH. Trong ngày 10 Tháng Ba, Sư Đoàn F10 dưới quyền chỉ huy của các tướng Bắc Việt Hoàng Minh Thảo,Vũ Lăng đồng loạt tấn công Ban Mê Thuộc.
Cuộc tấn công được tăng cường Sư Đoàn 320 là đơn vị cơ hữu đã có mặt từ trước nơi vùng B3 này, thêm Sư Đoàn 316 từ miền Bắc mới xâm nhập, và Sư Đoàn 341 tổng trừ bị. Sư Đoàn 316 rời miền Bắc vào Nam từ 1974 để chuẩn bị chiến trường cho Tướng Văn Tiến Dũng, nhân vật số 2 của quân đội miền Bắc. Tướng Dũng đã vào Nam từ ngày 5 Tháng Hai, 1975, bằng một chiếc máy bay Antonov 24 nhưng mãi đến Tháng Tư, CIA Mỹ mới khám phá ra. Lực lượng Cộng Sản đánh Ban Mê Thuộc gồm khoảng 25,000 người có pháo binh, chiến xa phối hợp yểm trợ.
Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc, phía VNCH chỉ có khoảng 1,200 quân gồm lính hậu cứ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa Phương Quân Tiểu Khu Đắk-Lắc, và Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân. Tức tỷ lệ 20 đánh 1. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến đấu


Với tỷ lệ 20 đánh 1 có pháo binh, chiến xa yểm trợ (chỉ không có phi cơ) phía cộng sản làm sao không đánh thắng? Chưa hết, năm 1975 Hà Nội đánh chiếm miền Nam với  hai lợi điểm, phải nói hai ưu thế quyết định: Sự bất ngờ tình báo được bảo đảm toàn hảo và cái ô chính trị tuyệt đối an toàn.
Khi Cộng Sản quyết định tiến chiếm thị xã Ban Mê thuộc cực Nam của vùng Cao Nguyên Trung Phần, nơi tương đối bình an của Vùng II, mục tiêu không hề được tính đến trong suốt mười-lăm năm chiến tranh khởi đi từ 1960. Thế nên từ 2 giờ sáng ngày 10 Tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công (mà Tướng Dũng ước tính mặt trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần) chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày 10, thị xã Ban Mê Thuộc phần lớn đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng, cho dù Biệt Động Quân, Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Tướng Dũng cứ tưởng như là giấc mơ.
Tướng Dũng cũng không thể nào tin khi được báo cáo: Quân Đoàn II tháo chạy! Bởi vì ông không biết trong cuộc họp ngày 14 Tháng Ba, 1975, ở Cam Ranh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không nói rõ ràng về ý niệm điều quân: “Nếu có thể thực hiện triệt thoái khỏi Pleiku, Kontum thì cũng có thể chiếm lại Ban Mê Thuộc?!”
Những người cầm đầu Cộng Sản ở Hà Nội cũng không nghe tới tính toán: “Ngày trước với một tỷ rưỡi đồng đô la thì giữ được bốn vùng, bốn quân khu. Nay với 700 triệu thì chỉ giữ được hai Quân Khu III và IV.” Họp xong, ba ông tổng thống, thủ tướng, và tổng tham trưởng, ba tướng lãnh quân đội trở lại Sài Gòn. Tướng Tư Lệnh Phạm Văn Phú bay về Nha Trang. Để lại trách nhiệm chỉ huy toàn bộ cuộc di tản cho tướng lãnh được vinh thăng cuối cùng của Quân Lực VNCH, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, quốc gia tên gọi “Việt Nam Cộng Hòa” bắt đầu “chết” từ điểm tắt thở này. Đây là cuộc hành quân di tản toàn Vùng Cao Nguyên, một Quân Khu II trên một đoạn đường  228 cây số mà 10 năm nay không được sử dụng (trên bản đồ quân sự đoạn Hậu Bổn (Cheo Reo) đến Sơn Hòa chỉ màu XANH, chỉ đoạn đường KHÔNG SỬ DỤNG ĐƯỢC).
Nguy hại hơn nữa, cuộc hành quân rút lui KHÔNG CÓ LỆNH HÀNH QUÂN điều hành, thống nhất chỉ huy! Cũng bởi Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Quân Khu II, chỉ thực sự chỉ huy những đơn vị Biệt Động Quân thuộc quyền của. Đêm 16 Tháng Ba, 1975, các đơn vị quân đội âm thầm bất ngờ triệt thoái được êm xuôi. Nhưng đến sáng hôm sau, dân chúng hay được, hoang mang, hốt hoảng vội vã ùa chạy theo đoàn quân với bất cứ phương tiện di chuyển nào kể cả chạy bộ. Quân Cộng Sản bắt đầu đuổi theo, nã pháo thẳng vào đoàn di tản.
Trời cao nguyên buổi tàn Xuân gây gây rét vào sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt ngưi, vạn tròng mắt đỏ rực. Những tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn, khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh sáng kinh dị trong mắt những người lính Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân, thành phần hậu vệ đoàn di tản.
Pleiku, thị trấn thủ phủ của miền Cao Nguyên, luôn trĩu lặng sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ đống kim loại, khí giới, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường dốc hun hút lẫn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu của máu. Đoàn di tản qua được một ngày bình an. Bình an sống sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống, được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở tri? Còn biết kêu vào đâu? Với ai?
Bình an của ngày đầu tiên này không kéo dài được lâu, bởi phía Cộng Sản trong ngày 16 đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân Đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10 Tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuộc? Qua máy dò tìm làn sóng, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, tổng quát hơn chiến dịch tấn chiếm miền Nam, chiến dịch mang bí số 275, choáng người vì thắng lợi quá mau chóng, quá lớn, Quân Đoàn II đang tháo chạy!
Dần dần họ khám phá vài phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi trưng Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Viên chuẩn úy nằm vùng trong Sư Đoàn 2 Không Quân, người đã điều chỉnh pháo binh chính xác từ bao ngày qua, người quan sát các phi xuất di tản đã đến hồi lộ mặt không ngần ngại – Anh ta báo cáo bằng bạch văn! Sự kiện đã trút gánh nặng âu lo “phía cộng hòa có thể điều quân tái chiếm” ra khỏi đầu Văn Tiến Dũng.
Tướng Dũng mắng thẳng và đe dọa Kim Tuấn, viên tư lệnh Sư Đoàn 320: “Nếu đồng chí để vuột mất đoàn di tản thì phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.” Bởi, Kim Tuấn đã từng cam kết: “Một đơn vị cơ giới với chiến xa, pháo binh nặng không thể nào đi qua đường 7B được…”
Quả thật, ông Nguyễn Văn Thiệu ít ra cũng lừa được một người cũng như trong mười điều sai ông cũng có một điều đúng với câu nói: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói…” Sư Đoàn 320 được lệnh băng rừng truy kích đoàn di tản và Sư Đoàn 968 trên đường bôn tập từ Lào về Pleiku cũng được lệnh đâm ngang từ ngã ba Thanh An, chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 về đồng bằng.
 
Văn Tiến Dũng thở phào nhẹ nhõm… Vậy là không có phản công tái chiếm như sau lần bỏ Khe Sanh (1968), chịu mất Quảng Trị 1972, lần bốn mươi thành phố miền Nam bị tấn công Tết Mậu Thân. Lần này quân Cộng Hòa, “bọn ngụy quân” đã bị bẻ gãy ngay xương sống. Ngày 16 Tháng Ba, một Chủ Nhật điêu linh tan nát dọc con đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía Đông Củng Sơn, bị cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi đập từ Tây quận lỵ Phú Bổn.


Xe tăng cán ngang lên GMC, xe GMC hất xe đò xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe jeep của thành phần thuộc các đơn vị yểm trợ, chuyên môn của quân đoàn, tiểu khu Pleiku, cán qua những chiếc xe Dodge4 của địa phương quân chất đầy người già, trẻ em tan nát. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo trên sưn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá!
Súng nổ…105, 155 pháo binh, XM72 của phía Cộng Hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 Cộng Sản tất cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ đục ánh nắng. Mặt tri bị chìm khuất trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất lên bề đường, người khô quắp, không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng… Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ lay lắt. Có tiếng bắn đi của sơn pháo thật gần.
Sư Đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di tản không sai trật một viên đạn. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang. Xác người tung lên theo đất bay bay. Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba.
Chiếc cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc xe… Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe có tiếng hét nghẹn, trên pháo tháp có đầu người ngoi ngóp. Người đạp lên đầu, lưng, vai người để được thở, được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay, chân kẹp dính đâu dưới lườn xe.
Cuộc di tản lớn quá, quá lớn nên người ta không còn sức đâu nghĩ đến lần rút lui của Liên Đoàn 32 Biệt Động Quân và lực lượng địa phương thuộc Tiểu Khu Bình Long trấn đóng tại An Lộc, cũng trong ngày 1 Tháng Ba.
An Lộc, cách Sài Gòn một trăm cây số đường chim bay. Chiến tích lớn của năm 1972, nơi Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân, Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Liên Đoàn 81 Biệt Kích đã đẩy lui những trận cường tập của các trung đoàn thuộc ba công trường 5, 7, 9 (sư đoàn bộ binh thuộc quyền chỉ huy của bộ tư lệnh lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam có cán bộ người Bắc làm khung cơ ở) và trung đoàn thiết giáp T54 phối hợp tăng cường, được ym trợ trực tiếp bởi pháo 130 ly hạng nặng.
Chiến tích An Lộc được mua bởi giá máu của ngàn con người ấy, bởi niềm tin, ý chí chiến đấu của miền Nam được thể hiện nay chỉ là một tiền đồn thụ động nằm trong tầm tác xạ của một dàn pháo cối đặt dầy xung quanh. Tồi tệ hơn nữa, cửa ngõ phía Nam của An Lộc, khu đồn điền Xa Cam bị quân Cộng Sản đóng chốt. Đường về Chơn Thành, phải qua tử huyệt này. Và khi An Lộc với Liên Đoàn 32 Biệt Động, Chơn Thành với Liên Đoàn 31 bị nhổ đi, bị xé lẻ ra Phan Rang, đến Tây Ninh, lui về tận Hố Nai thì từ căn cứ Lai Khê với Bình Dương-Sài Gòn, đoạn đường quá ngắn chỉ cần một ngày di chuyển với đôi chân. Nhưng bởi vết thương của Tỉnh Lộ 7 kéo dài theo hơn hai trăm cây số đường núi. Vụ triệt thoái An Lộc, Chơn Thành đành phải quên. Phải quên, dẫu cơn hấp hối từ, của trái tim sắp gần kề. Sài Gòn – Lai Khê đâu khoảng ba-mươi cây số, nửa giờ xe hơi.
Cuối cùng, đoàn di tản về đến Tuy Hòa ngày 25 Tháng Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ Kon Tum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì. 100,000 trừ đi 60,000 vậy đã chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người chỉ biết và đau với trưng hợp từng người thân, của mỗi gia đình, của chính thịt da mình.
Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ…  Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư Đèo Rù Rì, nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Bãi biển Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Nha Trang cũng mất vào tay quân Cộng Sản vài ngày sau, 30 Tháng Ba, 1975, dẫu đơn vị chính quy Cộng Sản chưa kịp vào đến thành phố. Nếu kể thêm bi thảm của Huế, Đà Nẵng ở phía Bắc thì đã mất một nửa quê hương miền Nam chưa hết một Tháng Ba! 

Ba.
Lần sụp vỡ Vùng II gây nên phản ứng dây chuyền vô cùng nguy hại đối với Vùng I/VNCH với thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn, thành phố Đà Nẵng, bản doanh Quân Đoàn I/Quân Khu I VNCH.
Đà Nẵng cũng là nơi Mỹ đổ quân, cũng một ngày Tháng Ba, 1965, nhằm mở rộng chiến cuộc trên toàn miền Nam, khắp vùng Đông Dương. Quân Khu I gồm Quảng Trị, Huế, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Tính, Quảng Ngãi. Vùng đất lửa đối đầu với miền Bắc không khoan nhượng qua những thời điểm đẫm máu Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Mới gần đây, còn nguyên dấu vết hung tàn ngọn lửa từ đầu hè 1972. Huế quả thật đã nhiều phen nếm sâu sự chết. Nhưng Huế vẫn sống. Huế luôn vượt sống.Thật ra Huế, Thừa Thiên vẫn sống được bởi sức nâng, nguồn bảo vệ từ một người anh em khốn khổ, người anh em chung cấu tạo đặc thù mà phải tinh tế lắm mới nhận ra âm sắc tiếng nói khác nhau qua con sông không đầy một trăm thước, sông Mỹ Chánh ngăn ranh Quảng Trị-Thừa Thiên, với hai thị xã đúng chiều dài bảy mươi cây số, Huế và Quảng Trị.
Vùng đất dựa núi và nằm cạnh biển với cửa Tùng, cửa Việt qua Thạch Hãn, sông Bồ, Mỹ Chánh, Hương Giang… Hai nơi khốn khổ, tội nghiệp nầy đã nâng nhau qua chiến tranh. Quảng Trị đã chịu phần thua thiệt đến đỗi bàng hoàng. Thành phố đã trở nên đống gạch vỡ vụn sau cơn địa chấn Xuân-Hè 1972. Tuy nhiên  trong trận chiến Xuân-Hè 1972, Tướng Ngô Quang Trưởng đã có đủ quân số gồm các Sư Đoàn 1, 2, 3 Bộ Binh và hai sư đoàn tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến để trấn giữ vùng lãnh thổ trách nhiệm đã phản công thành công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Nhưng bây giờ, 1975 không phải là năm 1972 khốc liệt ấy nữa, người Mỹ đã rút đi cùng bộ máy chỉ huy, tiếp vận tác chiến khổng lồ kể từ 27 Tháng Giêng, 1973, theo điều khoản ấn định bởi Hiệp Định Ba Lê. Và vấn đề xử dụng lại không quân với B52 dội bom cường tập như đã thực hiện suốt mùa Hè 1972 không thể  nào tái lập với Tổng Thống Ford đã bị quốc hội đảng Dân Chủ kiểm soát, khóa tay. Chính phủ Mỹ hoàn toàn tê liệt sau vụ án chính trị Watergate.
Ngày 18 Tháng Ba, sau khi gặp Tướng Phú ở Nha Trang, ông thủ tướng “khôn ngoan nhất” của miền Nam Trần Thiện Khiêm bay ra Đà Nẵng gặp tướng Trưởng để truyền lại lịnh của tổng thống “Sẽ rút sư đoàn Dù; còn sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ trả lại cho Sài Gòn sau đó.” Tướng Trưởng không có gì tăng cường. Không còn gì hết. Tướng Trưởng cố gắng lần cuối. Ông bay về Sài Gòn ngày 19 Tháng Ba, họp cùng với các ông Thiệu, Khiêm, Viên và cả phó Tổng Thống Hương. Ông cam đoan có thể giữ được Huế, Đà Nẵng, nếu đừng lấy đi những lữ đoàn Dù, Thủy Quân Lục Chiến còn lại.
Ông Thiệu tỏ vẻ ngần ngại trước quyết định sẽ rút một phần nào về Vùng I. Để cụ thể thêm cho ý niệm trên, ông chuẩn bị đọc một bài diễn văn với ngôn từ mạnh mẽ tỏ rõ quyết tâm bảo vệ Huế. Nhưng khi Tướng Trưởng vừa trở lại Đà Nẵng, ông nhận tin Huế đang bị đánh mạnh. Ông gọi về Tướng Viên; ông Viên đẩy qua ông Thiệu. Tướng Trưởng đành phải nói thật “…Tổng thống nên hoãn lại bài diễn văn… Huế không thể giữ được.” Thật ra ông Thiệu hiểu rõ hơn ai hết khả năng cố thủ của Huế. Ông ta muốn dành viên đạn ân huệ cho chính tự tay Tướng Trưởng.

Cùng ngày 18 Tháng Ba, phó Đại Sứ Lehmann gởi điện văn về Tòa Bạch Ốc, nhờ chuyển bản tường trình đến Đại Sứ Martin đang chữa bệnh ở Bắc Carolina. Lehmann báo tin về khả năng phía VNCH có thể bỏ Huế với dấu hiệu chiến xa, thiết vận xa đang rút về Nam và Thủy Quân Lục Chiến bỏ Quảng Trị. Ông đại sứ biết được – đã đến lúc chính ông, không ai khác, phải chịu mối “khổ nhục kế” của quốc gia ông nơi xa. Tóm lại, thế trận được đặt trên tuyến phương trình kỳ cục: “Người Mỹ không biết ông Thiệu đang tính toán những gì. Sài Gòn thì hoàn toàn mù tịt về những gì đang xảy ra ở Hà Nội.” Nên không biết được rằng Hà Nội đã chấp thuận đề nghị của Văn Tiến Dũng (sau thành công quá lớn ở mặt trận Tây Nguyên) – Đánh rộng ra toàn miền Nam, khai triển thuận lợi từ Ban Mê Thuộc và Pleiku.
Từ Ban Mê Thuộc, Sư Đoàn F10 tiếp tục hành quân về đồng bằng theo quốc lộ số 21, Sư Đoàn 320 cắt miền Trung tại Tuy Hòa, đâm xuống Nha Trang. Nha Trang sẽ là điểm hẹn của hai sư đoàn này trước khi tiến về Nam, hướng Sài Gòn. Riêng tại vùng I, Tướng Trưởng bị tấn công một lúc từ cả hai hướng Bắc và Nam. Trên nguyên tắc, sau Tháng Mười, 1973, khi Hà Nội, cục R phát lệnh đánh trả và ông Thiệu ra chỉ thị “Tái tổ chức, phối trí” từ hạ tầng cơ sở hành chánh và quân đội… Lính nghĩa quân được đôn thành địa phương quân, lính địa phương tập trung lại thành tiểu đoàn chủ lực và các sư đoàn diện địa phải cơ động trong khu, vùng trách nhiệm.
Nhưng đấy chỉ là lý thuyết và hoàn toàn là lý thuyết. Người lính địa phương quân của Tiểu Khu Quảng Trị, Thừa Thiên không hề được chuẩn bị, trang bị để đương cự lại những sư đoàn chính quy Bắc Việt, thế nên khi Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, cùng với liên đoàn Biệt Động Quân vừa rút khỏi Quảng Trị, dân chúng ùa đi theo. Tỉnh trưởng Quảng Trị khuyên công chức cho gia đình di tản. Tất cả tràn về Huế, và Huế sau dấu ấn Mậu Thân 1968 và nỗi khiếp sợ từ 1972… Theo luồng cuồng nộ bi thảm này chạy về Nam, vượt đèo Hải Vân.
Ngày 25 Tháng Ba, sáu giờ, Tướng Trưởng ra lệnh bỏ Huế. Lính Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Sư Đoàn I đồng tập trung tại Vĩnh Lộc, nơi cửa biển Thuận An, Đông-Nam Huế. Đề đốc Chung Tấn Cang gởi một số vận tải hạm ra cửa Thuận An đón đoàn quân cùng đám dân chạy loạn. Nhưng muốn đến bờ biển, lên tàu lớn, đoàn người di tản phải qua phà Thuận An, và tại đây lại một lần tái lập cảnh tượng địa ngục nơi Sông Ba, Tuy Hòa mười ngày trước. Thật sự chỉ đúng một tuần. Điều đau đớn này xảy ra như một chuyện tất nhiên.
Trong tất cả các hình thái hành quân, rút lui là một loại chiến thuật khó khăn nhất, bởi lẽ tự nó vốn đã mang yếu tố thất bại, thua cuộc. Không thể có một giải đáp tốt cho vấn đề đã vốn xấu, thế nên không hề có được một cuộc rút lui thắng lợi. Nếu có được một cuộc rút lui tương đối thành công của quân sử thế giới thì đấy là lần di tản 350,000 lính đồng minh từ mõm Dunkerque qua Anh năm 1940. Nhưng Dunkerque là một cứ điểm phòng thủ với yếu tố thuận lợi do hệ thống sông, lạch chia cắt với đất liền và bin vây kín trước mặt. Cuộc triệt thoái với hơn nghìn tàu đủ loại của Anh và Pháp điều động, chỉ huy bởi những sĩ quan, tướng lĩnh kỳ tài của hai đạo quân có truyền thống và tổ chức cao. Hai quân đội kia còn có một thời hạn tương đối đủ (từ giữa Tháng Năm đến Tháng Tư Tháng Sáu, 1941) và một hậu phương nước Anh kiên định vững vàng.

Tháng Ba, 1975, ở Đà Nẵng, Việt Nam, Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ có một vài giờ, một hai ngày và những lệnh, phản lệnh từ Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu. Những người lính, dân tại cù lao Vinh Lộc, tại cửa Thuận An lại càng khốn khổ hơn.

Bắt đầu là vô tổ chức, tiếp tới hỗn loạn và sau cùng là… bạo loạn. Công binh không thể bắc phà qua sông, tàu lớn không vào sát bờ, người di tản trong cơn khiếp đảm khi cái chết dâng đầy, tràn ngập phải vùng vẫy tuyệt vọng từng giây phút ngắn tranh sống. Tiền sát viên pháo binh Cộng Sản điều chỉnh mục tiêu không phí một quả đạn.
Đoàn người trần trụi trên dòng sông dưới đạn pháo. Sông là nhánh chảy ra phá Tam Giang, dòng nước đã soi bóng lửa thu ở rất lâu. Từ năm 1946, năm vỡ mặt trận Việt Minh chống Pháp. Năm nay, 1975, người Cộng Sản bắn vào ai? Chống ai?
Cảnh bi thảm không phải chỉ bày ra nơi cù lao Vinh Lộc, cửa Thuận An. Một trăm cây số đường từ Huế vào Đà Nẵng dày đặc xe và người chạy loạn. Lúc đầu người ta sử dụng xe vận tải, xe du lịch, GMC… những xe động cơ bốn bánh, hai bánh. Tất cả đều chất cứng đồ đạc và lăn từng thước, từng chục thước đưng.
Quân Cộng Sản không hề chậm chạp, lập ngay những chốt chặn ở những vùng núi đèo Phú Gia, Phước Tượng, ở Cầu Hai, Nong, Truồi… Bất cứ nơi nào thuận lợi cho việc phục kích. Lính Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đơn vị đã từng giữ vững Bastogne, Checkmate… Đơn vị đã nhảy xuống Tchépone Hạ Lào, những tiểu đoàn bộ binh hàng đầu của quân lực miền Nam, đại đội trinh sát lừng lẫy Hắc Báo, tất cả đều bị đám thân nhân, gia đình binh sĩ cồng kềnh rối rắm, tan nát, âu lo bó tay. Người lính nào chiến đấu được với con trên lưng, vợ đang cơn nguy khốn?! Thế nhưng đoàn người vẫn phải lần từng bước đường về Nam, hướng đèo Hải Vân. Và khi xe hơi bị tắc nghẽn trong vũng lửa, chiếc honda đổ nhào xuống hố vực, người bế con lên tay, đầu gục xuống cất từng bước..

Đèo Hải Vân đây rồi! Những người đã chạy từ Quảng Trị, Mỹ Chánh, Phong Điền, An Lỗ chen chân lên đường đèo ngầy ngật khói đen dày. Vẫn còn những đơn vị lính Cộng Hòa giữ vững tay súng, Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến nhận bàn giao từ Lữ Đoàn I Nhảy Dù, trấn giữ đèo Hải Vân, ngăn quân Cộng Sản ở mặt bắc Quảng Nam-Đà Nẵng. Nhưng một tiểu đoàn trong chiến tranh buổi tàn cuộc có là bao?!
Năm 1944, quân đội đồng minh muốn giữ vững Bastogne giữa vòng vây Đức phải có một đơn vị sư đoàn – Sư Đoàn 82 Nhảy Dù Mỹ do viên sĩ quan ngoại hạng, Maxwell Taylor chỉ huy. Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến nay đối diện với ba sư đoàn bộ binh nặng, một lực lượng gồm các trung đoàn, tiểu đoàn Cộng Sản địa phương, một vùng đất dài từ chân đèo, xã Lăng Cô cuối tỉnh Thừa Thiên ra đến sông Thạch Hãn, Quảng Trị, vùng đất bị lực lượng Cộng Sản lấn chiếm từ Mùa Hè 1972.
Và xa hơn là Cửa Việt, Gio Linh, sông Bến Hải, vùng “giải phóng” đã được thâu đoạt, củng cố từ 1972, 1973. Cuối cùng, xa hơn nữa, rộng hơn nữa – một miền Bắc xã hội chủ nghĩa “hậu phương lớn” của “tiền tuyến lớn miền Nam.” Nhưng hẳn chỉ ngừng lại ở đây, tăng cường, trợ lực cho Cộng Sản Bắc Việt còn có nước Trung Hoa mênh mông, Liên Bang Xô Viết vĩ đại, khối thành trì của phe xã hội chủ nghĩa đang luôn chờ đợi, luôn chực sẵn cánh tay kéo dài xuống phương Nam – giấc mộng bền bỉ dài lâu của các chủng tộc người Hoa, Mãn, Slave… Tiểu Đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH không thể nào đương được như một lý đương nhiên.
Người lính miền Nam cũng vấp phải tình thế không thể nào xoay trở, bởi trên đường đèo, trước mũi súng anh chỉ thấy nhấp nhô trùng điệp vạn đầu tóc rối chạy loạn, tràng âm thanh thấp thỏm bi thương…  “En” lính Cộng Hòa ơi! “En” lính Cộng Hòa ơi! Tiếng kêu một lần anh nghe được từ Mậu Thân, từ Mùa Hè Đỏ Lửa 72. “En” ơi… Con tui hắn chết rồi! Tui biết làm chi bây chừ “en” ơi! Người mẹ quê thất sắc, mắt lạc thần, giở vạt áo dài, đứa con nhỏ say nắng, bầm tím, chết ngạt từ bao lâu. Người đàn bà ngồi xuống lề đường trên đá núi, gục đầu vào xác thân nhỏ bé sâm sấp tử khí gây gây. Chẳng phải người lính, đến Thượng Đế chắc cũng phải bật khóc gào lên.
Đà Nẵng không chỉ bị ép từ phía Bắc, mà cả từ phía Nam, vùng đất Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi đã bị cắt đứt ra từng mảnh nhỏ và người dân từ những nơi này tràn về Đà Nẵng để tìm một chỗ xuôi Nam. Và địa ngục tăng thêm cường độ nơi bến tàu, nơi chân cầu Trịnh Minh Thế, bến cá chợ Hàn, căn cứ Hải Quân Tiên Sa. Người ta dùng lưới để móc những kiện hàng quái dị…
Đám người tan tác rền rĩ khóc la khản đặc. Nhưng dẫu có bị móc đi bằng lưới hoặc giành được một chỗ trên phi cơ (dân hoặc quân sự, kể cả máy bay Mỹ), những người rời xa Đà Nẵng cũng còn thở được hơi dài… Đã thoát khỏi chết. Đã thoát khỏi Việt Cộng. Thoát khỏi một thành phố tràn ngập tiếng động từ những kho hàng bị cướp phá, người bị cướp, bị giết kêu cứu… Đám tù quân phạm từ những trại quân lao tràn ra, trả thù những năm tháng giam giữ với cách phát triển bản năng ác độc từ lâu ức chế với cách thức thú vật hung tàn.











Cơn hấp hối của Đà Nẵng không kéo dài. Ngày 27 Tháng Ba, pháo binh Cộng Sản bắt đầu bắn thăm dò vào Đà Nẵng từ những vùng lân cận vừa lấn chiếm. Bộ Tư Lệnh mặt trận Bình-Trị-Thiên phối hợp với mặt trận B2, Quảng Nam-Đà Nẵng quyết định dùng Sư Đoàn 324 và 325C từ mạn Bắc chiếm đèo Hải Vân đổ xuống; từ hướng Nam và Tây Nam hai Sư Đoàn 407 và 711 đánh lên.
Chiến trận được hai trung đoàn pháo và thiết giáp yểm trợ. Hỏa lực của pháo binh Cộng Sản tập trung vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và căn cứ Hải Quân Tiên Sa, các địa điểm thực hiện kế hoạch di tản. Nhưng thực tế không còn kế hoạch nào nữa, bởi vì các điểm, căn cứ đã là những vị trí hỏa tập.
Đặc công Cộng Sản trà trộn vào đám đông điều chỉnh từng quả đạn nổ chính xác giữa những thân người chen chúc. Ngoài khơi Đà Nẵng một hạm đội chực sẵn gồm tàu Việt Nam Cộng Hòa, Đại Hàn,  Đài Loan, Úc, Anh, Phi Luật Tân… Và lẽ tất nhiên có tàu hải quân và dân sự Mỹ. Nhưng bởi Mỹ là nước “cam kết” tôn trọng thực hiện Hiệp Định Paris, nên Tổng Thống Ford đã ra lệnh cho tàu Mỹ không được vào hải phận Việt Nam.
Do thái độ “nghiêm chỉnh” của Mỹ và đồng minh phe tự do, người tị nạn phải đội con lên đầu, cõng mẹ sau lưng lần từng bước, dò đáy biển tiến ra khơi! Thây người mắc vào gềnh đá trôi sâm sấp. Qua ngày 28, bãi biển đã thành một nghĩa địa bồng bềnh xê dịch. Người sống sót rẽ thây chết đi ra phía trùng dương mờ đục khói. Khói sóng và khói đạn pháo binh, hỏa tiễn.
Nhiều trường hợp xác chết biến thành cái phao để người “chưa chết” bám víu vẫy vùng, cố sống. Cố gắng sống thêm vài phút ngắn. Trong đám người tan vỡ này có Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông bơi ra một chiếc xuồng rồi lên một tàu của Hải Quân Việt Nam do trợ lực của một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến. Chiếc tàu đã biến dạng bởi binh sĩ đã ngồi tràn lên cả cột cờ, ụ súng. Trông giống như tổ kiến khổng lồ trôi dạt trên sóng biển. Tình cảnh trên những tàu dân sự ngoại quốc càng tồi tệ hơn. Gần mười  ngàn người chồng chất lên nhau trên một chiếc tàu chở hàng với vài chục thủy thủ. Ngàn con người không nước uống, không thức ăn cào xé nhau dưới hầm tàu nghẹn thở hoặc trên boong sắt bốc hơi nóng dưới mặt trời đầu Hè của miền Trung.
Tàu Victoria chở người di tản ghé Cam Ranh. Người cha bế đứa con bước xuống bãi cát trắng. Cát nóng sôi lúc nhúc những đầu người cuống quýt. Không một tiếng động lớn, không ầm ĩ ồn ào, chỉ khẽ rít nhỏ rầm rì giữa những cánh môi khô nẻ, trắng bọt xám… Nóng quá!! Khát quá!! Chiếc tàu họ vừa rời khỏi đã là một nghĩa địa di động, nhưng khốn khổ hơn những lò thiêu người Do Thái ở Auschwitz, Birkenau, bởi hơi nóng của vỏ, sàn tàu dưới mặt trời không đủ nhiệt để đốt cháy da thịt người.
Trên sàn, dưới hầm lềnh kênh những thây chết chưa đúng nghĩa… Những người ngộp thở vì bị đè, ép, dẫm lên. Người già và trẻ em chiếm phần lớn. Những sinh vật vô tội và vô hại đối với bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ lực lượng vũ trang nào. Các cuộc tấn công quân sự của lực lượng Cộng Sản khởi đi từ Tháng Ba đã biến những xác chết này nên thành chứng cớ của tội lỗi. Và họ phải chịu cơn hấp hối từ rất lâu trước khi “được” chết để đền xong mối tội. Tội đã sinh và sống nơi vùng “tạm chiếm của bọn ngụy quân, ngụy quyền” – Tội làm người nơi nước Việt, ở miền Nam.
Nha Trang cùng lâm cơn hấp hối với Đà Nẵng. Người Nha Trang bị dồn ép, bị đuổi siết bởi những người chạy loạn từ Pleiku, Phú Bổn xuống; từ Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi ùa vào… Tất cả lại chuẩn bị lên xe, hướng phía Nam, Phan Thiết, Bình Tuy… Sài Gòn.
Sài Gòn, như kẻ phụ tình cay đắng cuối đi không thể rời bỏ. Và cảnh cũ của Bến Cá, phi trường Đà Nẵng lập lại tầng tầng bi thảm nơi Cầu Đá, phi cảng Nha Trang. Máy bay cất cánh với chân, tay người thò ra nơi khoang chứa bánh đáp! Dọc đường Số 1 những chiếc trực thăng chở khẳm chòng chành rơi vãi những thân người tan tác theo luồng gió và cánh quạt động cơ đùa đi. Và biển Đông lại nhận thêm được những tặng phẩm khốn cùng mới mẻ…
Những thây người vào ra sâm sấp theo triều sóng ngậm ngùi. Tượng Thánh Mẫu Thiên Y từ đỉnh cao Tháp Bà đầu cầu xóm Bóng, Nha Trang một đêm bất ngờ, vô cớ rơi xuống! Hàng triệu sâu bọ từ mạch đất sâu bật tung bò ra lềnh đặt hơn cây số đưng từ Cam Ranh đi Phan Rang. Đoàn người chạy loạn dẫm lên nghe nhầy nhầy, sừng sực như đạp phải thây chết. Chẳng ai để ý.
Tất cả đã quen với cái chết. Con người đang chết. Sự chết toàn diện của lần tận diệt. Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức tử miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ ngày 10 Tháng Ba ở Ban Mê Thuộc. Không cần đủ hết Tháng Ba.








Tình hình quân sự miền Nam hoàn toàn suy sụp, Mỹ quyết định chấm dứt sự dính líu đến VNCH! (Hình: Flickr manhhai)
Bốn.

Tháng Ba, 1975, ở Mỹ có nhiều ý kiến về Việt Nam. Điển hình với người công dân Milliard E. Crane ở Fonda, New York, trong lá thư gởi ban biên tập báo Newsweek viết nên lời thống thiết: Tinh Thần 76 đâu rồi? Hôm nay nước Mỹ đứng yên nhìn Cambodia, tiếp đến Việt Nam lần lượt rơi vào nanh vuốt bọn xâm lược.
Và như quân bài domino dần tan rã, phải chăng lần tới sẽ là Thái Lan, rồi đến Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc với Đài Loan và tiếp tục nữa chăng? Những dân tộc này đã và đang chiến đấu cho những lý tưởng quan yếu như chúng ta hằng chống lại đế quốc Anh.
Chúng ta đốt pháo bông ăn mừng khi hỏa tiễn dày xéo tự do ở nơi bên kia thế giới được chăng? Chúng ta nên cần một Patrick Henry nung nấu dòng máu và một George Washington giữ thẳng xương sống chúng ta.
Nhưng hòa bình lại không do từ những con người trên, hòa bình đến bởi Kissinger, người phải ngậm cục kê vào miệng – giải thưởng Nobel Hòa Bình để không thể nói một lời gì khác ngoài việc phải hô hào bảo vệ cho kỳ được nền “hòa bình trong danh dự” mà ông ta đã phải xoay trở mãi từ 1968 đến Tháng Giêng, 1973, mới ráp nối được.
Hòa bình đó đã tồn tại đến những hai năm, hai tháng cho dù đôi khi lâm bệnh ngặt nghèo với vụ lấn chiếm Tống Lê Chân và Phước Long.
Nếu “Hòa Bình” phải cơn hấp hối như hôm nay (Tháng Ba, 1975) thì ắt phải do… Nguyễn Văn Thiệu “một người tuyệt vọng đến độ phát hoảng” và dù cho miền Nam có mệnh hệ nào thì “Việt Nam cũng không phải là tận cùng thế giới” và đây cũng là lỗi của Quốc Hội – nơi đảng Dân Chủ kiểm soát Hạ lẫn Thượng Viện, với Kennedy, Johnson đã đưa cuộc diện Việt Nam vào bãi lầy nên phải cậy đến khôn ngoan rất mực của ông ta mới tìm ra lối thoát.  Mà việc này ông đã “hoàn tất một cách xuất sắc” với giải Nobel Hòa Bình cao quý!
Tóm lại, chỉ còn đôi lời cam kết giữa hai tổng thống Nixon và Nguyễn Văn Thiệu! Cũng không có gì khó, sẵn vụ năm anh Cuba đột nhập vào tòa nhà Watergate của đảng Dân Chủ, lục túi thấy một đống đô la vừa tiền mặt, vừa tín phiếu, và sỗ ghi các điện thoại. Truy tầm một hồi thì thấy ngay xuất xứ của số tiền, các tín phiếu này (dù qua một hệ thống nhiều ngân hàng của Mỹ và Mễ Tây Cơ) vốn từ quỹ vận động bầu cử Tổng Thống Nixon!  Chạy thế nào thoát.
Hai ký giả Bernstein và Woodward của báo Washington Post vớ phải ngay một “ông nằm vùng, bí danh Deep Throat” từ đâu trong Bạch Cung. Ông này hằng tuần hẹn hò trên trang 20 báo Post dò hỏi cách gặp gỡ.  Và nếu khẩn cấp thì gọi nhau, cho ám hiệu. Thế là, ông Nixon chửi thề như thế nào, ông John Mitchell nói cái gì, cố vấn Haldeman thở than với vợ ra làm sao… Tất cả đâu đó đã sẵn để hai ông nhà báo lựa chọn, ra tin. 








 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chỉ một Tháng Ba, 1975, miền Nam mất $700 triệu chiến cụ. (Hình: Flickr manhhai)
Giằng co một hồi đến 8 Tháng Tám, 1974, thì Tổng Thống Nixon buộc phải từ chức! Ai hứa với ai gì nào? Tổng thống kế nhiệm Gerald Ford khi đến Palm Spring, California, chơi golf bị ký giả truy hỏi về tình hình Việt Nam; vừa chạy vừa cười tươi. Chiến tranh Việt Nam đã là dĩ vãng! Đến một lúc sau khi nói chuyện với doanh nhân, nhân viên chính quyền cao cấp ở San Diego ông mới nói thật…
“Tình hình quả thật bi thảm và chúng ta cần một ý nghĩa mới về đoàn kết quốc gia tại thời điểm đau buồn, hỗn loạn này…” Nhưng ông cũng không quên yêu cầu Quốc Hội chuẩn y phần viện trợ khẩn cấp. Sự cố gắng của tổng thống Hoa Kỳ được hiện thực. Quân cảng Vũng Tàu, Tân Cảng cầu xa lộ Sài Gòn được tiếp nhận thêm một số quân trang, quân cụ, vũ khí mới…  Súng 105 đời Thế Chiến Thứ II, nón sắt, ống nhòm, và súng colt và xe GMC. Chỉ một Tháng Ba, 1975, miền Nam mất $700 triệu chiến cụ đến nỗi một viên chức Ngũ Giác Đài phải ngao ngán thốt lên: “Tốt hơn hết chúng ta nên chuyển thẳng cho Hà Nội, như thế khỏi phải bị hư hao…”
Khi bị chất vấn về 58,000 quân nhân Mỹ tử trận ở Việt Nam, vị tổng thống không do đấu tranh, bầu cử mà nên chức phận, đã ngậm ngùi than vãn: “Chúng ta quả thực không thực tế một chút nào vì đã quá trịnh trọng cam kết tại hội nghị khi đã chấm dứt tranh đấu ở Việt Nam.” Và nếu có đôi chút thành thật họa chăng là lời thú nhận cay đắng của Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller… “Tôi e rằng một số người Việt đang dần chết… Trong khi, chúng ta vẫn tiếp tục sống…” Nói như thế kể ra cũng đủ gọi là thành tâm!
Trong ngày đầu Tháng Tư, 1975, cựu Bộ Trưởng Thông Tin Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã lúc ấy giữ chức vụ cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã có mặt tại Tân Gia Ba theo lời mời của Thủ Tướng Lý Quang Diệu.
Thủ Tướng Lý mời Cố Vấn Nhã đến để trao gởi một nguồn tin quan trọng. Ông vào thẳng vấn đề: “Đừng để mất thì giờ vô ích, tôi mời ông tới đây bởi kết thúc ở Việt Nam sắp xảy ra, đang phải đến.” Thủ Tướng Diệu nói rõ: Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller vừa hỏi ý kiến ông cũng như những vị lãnh đạo Á Châu khác là: “Liệu chúng ta có cách gì để đưa ông Nguyễn Văn Thiệu ra đi hay không.” Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các nước Đông Nam Á của Phó Tổng Thống Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua tại Đài Loan vào ngày 5 Tháng Tư là để thông báo một điều quan trọng: Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người cầm quyền ở Nam Việt Nam.
Ông Hoàng Đức Nhã liền thông báo cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng mấy phấn khởi này, một phần ông cũng đã hiểu ra thực tế: Giới quân nhân, những tư lệnh các quân khu qua tình hình chiến sự đã không còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu vốn là một tướng lãnh quân đội.
Cuộc rút bỏ Tây Nguyên vào ngày 15 Tháng Ba tiếp theo lần di tản Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang… vào cuối Tháng Ba với chuỗi thảm cảnh kinh hoàng của dân và lính vượt khỏi tất cả những dự kiến, làm tan vỡ sức chiến đấu, phá hủy quân trang cụ, vũ khí của hai Quân Khu I và II đã bày ra điều cùng cực phi lý và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đã không kiểm soát đượcc tính hình chính trị lẫn quân sự của miền Nam. Hơn thế nữa lời thông báo của Phó Tổng Thống Rockefeller không là ý kiến riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh thực tế về quyết định của chính giới Mỹ đối với tình thế chung cho toàn vùng Đông Nam Á. Đấy là Mỹ rút ra khỏi vùng này theo thỏa thuận với Trung Cộng từ thông cáo Thượng Hải ký năm 1972 giữa Châu Ân Lai và Nixon. Tổng Thống Thiệu làm sao không biết thì ai biết tới kết thúc này? Không biết chính xác lúc nào mà thôi!
Ngày 12 Tháng Tư, Nam Vang, Cambodia, thất thủ, tất cả bộ trưởng của nội các Long Boret chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị của Tòa Đại Sứ Mỹ, tất cả đồng ở lại với đất nước và đã là những nạn nhân bị hành quyết đầu tiên bởi cách hành hình man rợ của đám đao phủ Khmer Đỏ.








 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm từ Hoa Thịnh Đốn trở về 
với tin sét đánh:
“Không những không có $300 triệu quân viện bổ sung mà có thể 
không còn viện trợ quân sự nữa!” (Hình: Flickr manhhai)
Điển hình là vị cố vấn chính trị Sirik Matak của Tổng Thống Lon Nol đã có lá thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Mỹ Dean John với lời lẽ khẳng quyết bi tráng như sau: “Kính gởi ngài đại sứ và các bạn… Tôi chân thành cảm ơn lá thư ngài chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện đi đến vùng tự do. Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế được. Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có được nhiều điều hạnh phúc dưới cõi trời này. Nếu tôi có phải chết thì cũng chết trên đất nước mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm một lỗi lầm là đã tin vào ngài và tin vào những người bạn Mỹ.”
Từ tình cảnh của Cambodia hiểu ra tình thế của miền Nam khi tình hình quân sự hoàn toàn suy sụp, và Mỹ quyết định chấm dứt sự dính líu đến VNCH!
Ngày 8 Tháng Tám, 1974, Tổng Thống Richard Nixon từ chức, Phó Tổng Thống Ford lên kế vị, vốn là một chủ tịch Hạ Viện được kế vị do hiến định nên khoán trắng vấn đề đối ngoại, an ninh quốc gia cho Cố Vấn kiêm Ngoại Trưởng Henry A. Kissinger.
Số phận Việt Nam được quyết định với viện trợ kinh tế bị cắt khoảng 50% (theo đề nghị của Thượng Nghị Sĩ Kennedy), và viện trợ quân viện được xác nhận ở số $625 triệu, có thể chỉ là $500 triệu (tức cắt đến 60%).
Tháng Mười Hai, 1974, tỉnh lỵ Phước Long bị mất, Tổng Thống Ford, Ngoại Trưởng Kissinger đã không có hành động đáp ứng cụ thể nào như đã hứa hẹn, cam kết. Tổng Thống Gerald Ford lại bị trói buộc toàn diện bởi Nghị Quyết Sử Dụng Vũ Lực Chiến Tranh đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn từ Tháng Mười Một, 1973. Nghị quyết này hiện thực đạo luật cắt bỏ quỹ “Hoạt Động Tác Chiến” vốn được dùng để yểm trợ cho chiến cuộc Đông Dương trước Hiệp Định 1973.
Tổng Thống Ford cố làm yên lòng Tổng Thống Thiệu bằng cách cử một phái đoàn do Thứ Trưởng Quốc Phòng Clements sang Sài Gòn; ông Thiệu chỉ định Đại Sứ Trần Kim Phượng, Bộ Trưởng Vương Văn Bắc sang gặp Tổng Thống Ford. Tổng thống Mỹ hứa cứu xét đến quân viện bổ sung $300 triệu để phục hồi lại $1 tỷ như hoạch định. Cần nhắc lại những số liệu để so sánh: 1/Giai đoạn 1966-1970: Mỹ tiêu $25 tỷ/năm bởi có 500,000 quân Mỹ và đồng minh đang tham chiến. 2/1970-1971: $12 tỷ/năm vì đang rút quân. 3/Sau khi Mỹ rút hết quân thì: 31/Tài khóa 1973: $2.1tTỷ; Tài khóa 1974: $1.4 tỷ; Tài khóa năm 1975: $700 triệu. Vậy nếu có được $300 triệu bổ sung thì quân viện năm 1975 cũng chỉ được $1 tỷ.
Khi quân Cộng Sản miền Bắc khởi đầu tấn công Ban Mê Thuộc trong ngày 10 Tháng Ba; Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm từ Hoa Thịnh Đốn trở về với tin sét đánh: “Không những không có $300 triệu quân viện bổ sung mà có thể không còn viện trợ quân sự nữa!”
Như thế, $300 triệu (dự trù bổ sung) vào ngày 13 Tháng Ba, 1975, đã trở thành “Số Không” vì đảng Dân Chủ kiểm soát cả Hạ lẫn Thượng Viện đã bỏ phiếu với đại đa số: Chống bất cứ viện trợ nào cho Việt Nam kèm theo lời tàn nhẫn: “Viện trợ di tản thì cho, chứ một xu (viện trợ quân sự) cho Thiệu thì không.”
Trong cùng lúc: “Từ 1974 qua 1975, miền Bắc đã đưa vào Nam một số lượng quân trang cụ, vũ khí là 823,146 tấn – gấp 1.6” lần số lượng đã vận chuyển của 14 năm qua (kể từ 1960, năm bắt đầu thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19 Tháng Mười Hai, 1960).
Người lính VNCH ở chiến trường không biết những số liệu trên, họ chỉ biết: Trước “Hiệp Định Ngưng Bắn Tái Lập Hòa Bình Tại Việt Nam, 27 Tháng Giêng, 1973” trên chiến trường, trước khi xung phong vào mục tiêu họ được phi, pháo yểm với số lượng không hạn chế nếu như đụng địch.
Nay năm 1974, 1975, một mục tiêu chỉ còn “Bốn (4) viên đạn 105 ly cho một lần đụng trận.”
Người lính cũng không biết thực tế: Nếu không có biến cố Tháng 30 tháng Tư thì cũng chỉ đến khoảng Tháng Sáu, 1975, đạn tồn kho sẽ hết, và đến tháng 8 là hết sạch.
Báo cáo của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận Trung Tướng Đồng Văn Khuyên lên Đại Tướng Cao Văn Viên Họ cũng không biết trong Chiến Dịch Hồ Chí Minh tấn công vào Sài Gòn cuối Tháng Tư: “Toàn thể quân đội miền Bắc đang có mặt ở miền Nam! Lúc ấy chỉ cần một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là có thể chiếm hết miền Bắc.” Người tuyên bố câu tán thán này không ai lạ, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henri Kissinger!
 (Phan Nhật Nam)

 fhttp://www.huongduongtxd.com/44namsaunhinlaimoidau.pdf

http://huongduongtxd.com/44namsaunhinlaimoidau_2.pdf

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire