
Không chỉ là vật che mưa, che nắng, chiếc nón lá chứa đựng kho tàng lịch sử của nền văn minh lúa nước của người Việt. Nguồn gốc của chiếc nón là câu chuyện kể về một phụ nữ cao lớn, bà luôn đội một chiếc nón làm từ bốn chiếc lá hình tròn. Bất cứ nơi nào Người xuất hiện, những đám mây tan biến nhanh và thời tiết trở nên thuận lợi. Sau khi dạy người dân trồng lúa và những loại cây lương thực, vị nữ thần này biến mất. Người Việt biết ơn và đã xây dựng một ngôi đền để tưởng nhớ công ơn của nữ thần.

Nón lá được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, có khi các bà các mẹ đội nó đi chợ hay người nông dân làm việc trên cánh đồng. Nón lá còn được xem là một biểu tượng của con người Việt Nam hiền hòa. Mặc dù chiếc nón lá không còn là vật dụng hàng ngày của người phụ nữ ở các thành phố lớn nhưng nó vẫn rất phổ biến ở làng quê Việt Nam.

Nón lá xứ Huế cũng khác biệt với các vùng khác. Khác biệt đầu tiên ở chất liệu lá. Các địa phương khác nhau, do phong thổ và tập quán khác nhau, dùng các loại lá khác nhau để làm nguyên liệu chính cho nón lá. Nếu như vùng lưu vực sông Đà, sông Thao ở miền Bắc phổ biến dùng lá cọ, khu vực Nghệ An dùng lá gồi, còn có tên là lá kè nam, vùng Bình Định dùng cây giang và lá kè nam để làm nón ngựa Gò Găng, thì vùng Bình, Trị, Thiên lại dùng lá nón, còn có tên là lá lụi.

Những địa phương khác như Quảng Bình, Bình Định cũng dùng lá nón làm nguyên liệu làm nón lá, nhưng sử dụng lá già hơn nên màu nón ở những địa phương này có màu trắng hơi ngả sang nâu vàng. Việc xác định đúng vùng nguyên liệu và tuổi lá, không quá non hoặc quá già để khai thác là kiến thức bản địa của những người thợ khai thác lá nón Huế.

Trong quá trình sấy phải bảo đảm nhiệt độ của lò ổn định trong khoảng từ 42 đến 45 độ và phải đảo lá thường xuyên để lá khô đều mà không quá dòn, sém hoặc cháy, ngả màu. Để có nhiệt độ vừa phải, nhiên liệu sử dụng cho các lò sấy là than thẻ – một loại than được hầm từ vỏ cây, mà không dùng các loại than củi khác từ các loại gỗ chắc vì chúng có nhiệt độ quá cao. Các bước trong quy trình và kỹ thuật của mỗi bước trong công đoạn sấy lá cần tuân thủ chặt chẽ, trong đó có cả một số bí quyết riêng của các lò để lá sau khi sấy vẫn giữ được màu sắc tự nhiên của lá. Sấy lá nón bằng than mà không sử dụng hoá chất tẩy trắng là điểm khác biệt cơ bản nhất của công đoạn sơ chế nguyên liệu lá nón so với các địa phương khác.
Có thể thấy quy trình làm nón với nhiều công đoạn yêu cầu sự tỉ mỉ, khéo léo của người thợ để có một chiếc nón lá Huế đẹp đã tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm.
Điểm đặc sắc quan trọng nhất, đặc điểm làm nên tên tuổi và danh tiếng cho nón lá Huế, là những “bài thơ trong chiếc nón”. Không biết tự bao giờ, và ai là người đầu tiên nghĩ ra việc làm nón bài thơ, tức là việc ghép các câu thơ, các bức tranh phong cảnh, các hoa văn cắt giấy vào nón lá Huế để có sản phẩm mới, độc đáo là nón bài thơ. Có lẽ cũng như các tác phẩm nghệ thuật dân gian: tác giả là nhân dân.

Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài…
Ở đoạn buồn nhất của bài hát, nhạc sĩ đã nhắc đến nón lá như là một hình tượng mong manh của người phụ nữ Huế trước những đau thương.
Hoàng Oanh – Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy
Buổi trưa em che nón lá,
cá Sông Hương liếc nhìn ngẩn ngơ…
Bảo Yến | Huế Xưa ( Anh Bằng )
Học trò xứ Quảng ra đi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành…
Trong một bài nhạc vàng viết về người con gái Huế khác là Người Em Vỹ Dạ, nhạc sĩ Minh Kỳ mô tả cô nữ sinh Đồng Khánh e lệ giấu đôi mắt biếc đằng sau vành nón lá khi gặp người trai viễn phương bên chợ Đông Ba:
Nón lá che khuất mắt biếc.
Cắp sách sớm trưa chiều
Đi học Ðồng Khánh qua cầu Trường Tiền…
Hoàng Oanh | Người Em Vỹ Dạ | Minh Kỳ

Không chỉ nón lá xứ Huế mới được đi vào trong nhạc vàng, mà nón lá vùng Hậu Giang cũng trở nên đằm thắm trong ca khúc nổi tiếng nhất mà nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác sau năm 75:
Chiếc áo bà ba trên giòng sông thăm thẳm.
Thấp thoáng con xuồng bé nhỏ lướt mong manh.
Nón lá đội nghiêng tóc dài con nước đổ.
Hậu Giang ơi em vẫn đẹp ngàn đời…
Nón lá mà kết hợp với chiếc áo bà ba là gợi lên hình ảnh lam lũ chịu thương chịu khó (nhưng cũng không kém phần duyên dáng) của những người con gái vùng sông nước.
CHIẾC ÁO BÀ BA | TRẦN THIỆN THANH | HỌA MI
Một người con gái đứng nghiêng nghiêng vành nón lá
Đường chiều bờ đê lối xưa kỷ niệm thiết tha…
Bên bờ đê xung quanh là màu xanh bạt ngàn của đồng lúa, hình ảnh một cô gái đứng nghiêng vành nón đứng chờ, gợi hình ảnh nhỏ bé đáng thương của những cô thôn nữ vẫn luôn trung trinh một mối tình. Chiều chiều, bóng dáng ấy lại ra đứng ngóng, dù không hề biết rằng phải chờ người đến khi nào…
Chờ Người - Như Quỳnh

Ngày nay ở thành thị, với nét sống vội vã nơi phố phường, nón lá không còn phù hợp nữa. Các chị, các cô đi xe giữa đường không thể đội nón lá, cũng như không thể đội nón lá để đi làm ở công sở. Vì vậy nón lá chỉ còn được nhìn thấy ở thôn quê, ở những nơi mà thời gian vẫn còn thong dong và trôi qua chậm rãi.
Bài tổng hợp (Nhacxua.vn)
VongNgayXanh sưu tập video
VongNgayXanh sưu tập video
*
* *
* *
CHIẾC NÓN BÀI THƠ -Y Vân -Bào Yến
*
* *
* *
Chiếc Nón Lá Việt Nam Trước 1975
*
* *
* *
Chiếc nón bài thơ- Quang Lê
*
* *
*
* *
Hình Ảnh Người Em Không Đợi-Hoàng Thi Thơ-Thuý Huyền
Ngày nào em đến
áo em màu trinh
áo xinh là xinh
áo em trong trời hồng
là gió là bướm là hoa là mây chiều tà
Ngày nào em đến
nón em cầm tay
nón em màu mây
nón em sao thẹn thùng
kề tai để nói cùng anh một câu chuyện lòng
Có bao giờ xóa nhòa tà áo trắng
hình dáng người em không ngóng chờ
một bài thơ đẹp thêm tình duyên trên nón em
Để từ hôm ấy
nón em làm thơ
nón em đệt mơ
đã ghi trong cuộc đời
hình bóng người em mà anh ngàn năm đợi chờ
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire