dimanche 13 août 2023

Gặp lại Phan Nhật Nam trên Quốc Lộ 1 (Kỳ 1) - Trần Vũ

https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2013/10/phan_nhat_nam_2.jpgLTS: Tháng Tư luôn là  một ám ảnh của người Việt, dù hải ngoại hay trong nước, và là nỗi băn khoăn, ray rứt cho cả những người thế hệ sau chiến tranh. Trẻ xin được phép đăng lại bài phỏng vấn người lính Phan Nhật Nam của  “người thế hệ sau” Trần Vũ như một chia sẻ đến quý độc giả một người đã trực tiếp bảo vệ cho nền tự do của Miền Nam. Do diện tích trang báo giới hạn, bài phỏng vấn này sẽ được chia làm 3 kỳ. Mời quý bạn đọc theo dõi…
Những ngày 11, 12 tuổi, vào những năm 73-74, tôi say mê Phan Nhật Nam. Anh trở thành thần tượng của tuổi thơ, với những ngày dài trên quê hương, những ngày bi thảm, những ngày thê lương, những ngày gẫy vụn, trong nỗi sợ khốn cùng. Nỗi sợ trái lựu đạn đã bật kíp. Nỗi đau vô hình của đồng ruộng ẩn chứa triệu trái mìn. Nỗi đau thắt ruột của người cha xếp xác con, trên đoạn đường từ Quảng Trị về Huế. Trong bất mãn của người lính trước một hậu phương vô ơn. Của người lính miền Nam phải tự vệ giữa một thế giới làm ngơ những thảm sát tập thể ở bãi Dâu, ở trường tiểu học Cai Lậy. Khác những nhà văn quân đội khác, tính chất bi tráng của một xã hội dân sự thời chiến phủ trùm lấy bút ký của Phan Nhật Nam, vượt lên trên các trận đánh. Không phải Mùa hè đỏ lửa, mà Tù binh và Hòa bình, Dọc đường số 1, Dấu binh lửa mới thực sự ghi lại suy nghĩ của một quân nhân trong chiến tranh. Bên cạnh, nhật ký của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc chỉ là những tiểu xảo của những sản phẩm được biên tập.


Tôi gặp Phan Nhật Nam lần đầu tiên khi nhà văn từ chiến trường trở về Sàigòn năm 1973. Khi ấy tôi hãy còn là một độc giả thiếu nhi, khám phá anh đội nón đỏ, quân phục huyết dụ. Lần thứ nhì cách đây bốn năm tại Washington DC, Phan Nhật Nam mang giọng nói sôi nổi của một xứ Quảng hãy còn lửa cháy. Lần gặp thứ ba, trên trang giấy này, tôi quyết định hỏi tất cả những gì đã chất chứa trong đầu mình, từ buổi sáng Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hòa Bình trên đài phát thanh, ký kết hiệp định ngừng bắn, cho đến bây giờ gần 34 năm sau bại trận, những câu hỏi vẫn bám lấy, không rời, từ buổi sáng 30 tháng 4 chứng kiến những người lính tháo vội vã nón sắt, áo giáp, vất tung thẻ bài, chạy vào hẻm chật. Buổi sáng của tuyệt vọng.
Buổi sáng 30 tháng 4 tương khắc với Mùa hè đỏ lửa, tương khắc với tính chất bi hùng trong ký Phan Nhật Nam. Lần gặp này, tôi muốn anh trả lời.


Nhà văn Phan Nhật Nam

Trần Vũ: Tôi không còn nhớ rõ ngày tháng, thời gian, nhưng vẫn nhớ buổi sáng theo cha đến khách sạn Continental dự buổi ra mắt sách của Phan Nhật Nam. Dường như là một trong những buổi ra mắt sách đầu tiên ở miền Nam khi ấy. Buổi sáng đó tôi đã trông thấy anh lần đầu tiên. Kể từ hôm đó, những ngày sau, tôi sống với anh cho đến bây giờ. Đúng hơn, tôi sống với những người lính Cộng Hòa trong tác phẩm của anh đến tận bây giờ. Hôm đó, Phan Nhật Nam để lại ấn tượng lớn lao trong lòng thầy tôi, cha tôi đã tin vào anh, vào quân lực miền Nam. Ông chưa biết ông sẽ chết vì niềm tin này. Cha tôi mua bút ký của anh đem về, và tôi khám phá chiến tranh, thứ chiến tranh thực sự ở ngoài chiến trường trên những trang sách của anh. Anh còn nhớ gì ngày hôm ấy? Có phải anh cũng đã tin như vậy, chúng ta không thể bại trận? Tại sao anh ra mắt sách, vì muốn đánh thức Sàigòn ra khỏi giấc mơ hoa lệ phù phiếm, cảnh cáo chiến tranh đã gần kề ngay cửa ngõ thành phố, hay vì vinh quang của văn chương? Hay anh đã muốn ru ngủ chúng tôi, những người dân ở thị thành, hãy tiếp tục tin vào sức mạnh của quân lực đang bảo vệ an nguy của thủ đô? 
 
Phan Nhật Nam: Chúng ta bắt đầu câu chuyện với tư thế bình đẳng, “Người Bạn – Bằng hữu – Ngang bằng nhau qua tất cả mọi khía cạnh”. Tôi không hề là “đàn anh” đối với bất cứ ai, cho dẫu lớn hơn hai-mươi, ba-mươi tuổi so với người đối thoại, giao tiếp. Năm 1965, giữ nhiệm vụ đại đội trưởng một đại đội lính nhảy dù, đứng trước hàng quân, tôi đã có lời thành thật: “Tôi nói gì các ông gắng nghe lời tôi, đừng đi phép về trễ, hành quân mang đủ cấp số đạn, lựu đạn… Còn các ông muốn chửi tôi trong bụng thì cứ việc…” Vào buổi hành quân, lính trong tổ chỉ huy ăn gì, tôi ăn như họ, đêm đến quấn chiếc poncho ngủ trên ổ rơm bên cạnh mấy người lính mang máy truyền tin đủ là một điều an lành, hạnh phúc… Mấy ông bạn đại đội trưởng cùng đơn vị đánh giá tôi: “Mầy không biết làm lính sợ, thiếu uy tín, tác phong chỉ huy…” Và quả thật tôi không muốn ai “sợ mình”; “Có uy tín chỉ huy hay không” cũng không là điều đáng quan tâm. Đối với “nghề quân đội” còn như thế, vậy việc văn chương tôi nào dám làm đàn anh, thần tượng “gây lòng tin” cho ai được. Ra mắt sách để dự mưu, tính chuyện nầy nọ làm gì… Với ai? Chỉ vì người bạn vong niên, nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình muốn làm chung một buổi giới thiệu Cơ sở văn hóa Đất Sống do ông và những người bạn cùng chủ trương, lo việc tổ chức. Và cũng là một điềm báo trước, đấy là buổi ra mắt sách đầu tiên và cuối cùng của miền Nam với “Tù Binh và Hòa Bình – Tình trạng (thật) của sau 30/4/1975”, trong đó có những câu khẳng định: “Khẩu hiệu ‘Sinh Bắc-Tử Nam’ không phải là một khẩu hiệu ‘kích động chiến thuật’ nhưng là một ‘chỉ đạo chiến lược’ để hoàn tất cuộc xích hóa Miền Nam… Trận chiến cuối cùng là giữa chúng ta với những sư đoàn bộ binh cộng sản Miền Bắc qua tấm đệm ‘Mặt-trận – Mặt trận giải phóng Miền Nam’… Hình như cả thế giới, một số đông cả thế giới không nhìn được âm mưu ghê tởm độc hại nầy – Nhưng cũng là một âm mưu rất rõ mặt.” (Tù Binh và Hòa Bình, nxb Hiện Đại, Sàigòn 1974; bản photocopy nxb Xuân Thu, Hoa Kỳ 1976, trg 244). Còn nhiều nội dung có tính “tiên tri” rất chính xác (đối với hiện tại) khác nữa, v.v… Nhưng tôi không hề là “nhà văn”, giới văn nghệ, viết văn, làm báo của Sàigòn những năm ấy không xếp tôi vào hàng ngũ của họ. Họ có những sinh hoạt riêng, lính tráng chúng tôi không liên hệ. Ở hải ngoại nầy, hôm nay cũng vậy, dẫu chúng tôi từ lâu không mặc áo lính. Trước sau, tôi chỉ là một “Người Lính-Viết Văn” – Điều nầy, đã giãi bày thật tình trong những cuốn sách đầu tiên Dấu Binh Lửa, Dọc Đường Số 1… Nên chẳng phải hôm nay mà bốn-mươi năm trước (1968) khi bắt đầu cầm bút, tôi đã viết thành lời: “Chẳng có ai là thần tượng của tôi…” Nhưng bản thân không hề là kẻ cực đoan, vô chính phủ, nổi loạn không duyên cớ. Tôi là quân nhân chuyên nghiệp – Biết tuân lệnh và ra lệnh cho người khác – Chỉ số Chuyên nghiệp Quân sự 240.7, tức chỉ huy một đơn vị bộ binh tác chiến.
Ông cụ của bạn và bạn có “lòng tin” đối với chữ nghĩa của tôi như thế là tốt lành rồi. Tôi không đặt cho mình nhiệm vụ gì khác hơn là: Nói về Sự Thật mà không hiểu tại sao nhiều người (rất nhiều người) năng lực tri thức hơn tôi, chức vụ lớn hơn, bằng cấp cao hơn, kể cả lớn tuổi đời hơn nhưng họ không thấy ra… Ví dụ như vấn đề cộng sản – Cộng Sản Việt Nam – Đọc lại những báo Đối Diện, Trình Bày năm 1973, 1974 kia thì sẽ thấy… Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Nguyễn Văn Trung, các linh mục Nguyễn Viết Khai, Chân Tín, Ngọc Lan (trước 1975) viết, nói những gì… Tại sao có thể nhận định sai lầm và nông cạn như thế đối với cộng sản? Lẽ tất nhiên, tôi cũng chưa một lần viết xuống nửa chữ: Tổng thống anh minh Nguyễn… Tóm lại, tôi không tin vào “sức mạnh” của quân đội và chuyển giao lòng tin nầy cho ai, nhưng tôi tin vào “Lý Chính Nghĩa” cuộc chiến đấu chung của toàn Miền Nam – Dẫu hôm nay là ba-mươi ba năm sau ngày 30/4/1975 – Và khi nguyên lý cao thượng nầy bị chà đạp, vất bỏ, Người Miền Nam nói riêng, cả nước nói chung tiếp hiện thực qua lần vượt biên/ vượt biển/ vượt chết không hề có trong lịch sử cổ kim nhân loại. Có thể do từ tính xả kỷ tự nhiên của người quen chịu đựng Khổ Nạn, không một ai trong tập thể người lính nói về tình thế, cảnh huống của riêng mình (trong chung cuộc chiến đấu của Người Việt), tôi tự nguyện thực hiện phần hành “không được bù trừ nầy…” Đấy là giai đoạn của Dấu binh lửa, Dọc đường số 1, Dựa lưng nỗi chết, Mùa hè đỏ lửa… khi mới qua tuổi hai-mươi với tư thế người lính tác chiến thực thụ sau ngày ra trường Đà Lạt, tháng 11/1963.
Trần Vũ: Ở thời điểm ra mắt sách, tình hình chiến sự miền Nam có thật sáng sủa như đôi mắt tin tưởng của Phan Nhật Nam khi ấy? Tin tưởng vào hòa bình sắp đến, tin tưởng vào những cam kết của Nixon? Hay anh tự đánh lừa mình, đánh lừa chúng tôi, hay Phan Nhật Nam cũng bị Cục Tâm Lý Chiến lường gạt? Các tập bút ký ghi lại nhiều chiến thắng của Quân lực VNCH, mà ngay cả khi thất bại, như trong trận Đồng Xoài hay khi bị tràn ngập trên đồi Charlie, đều được mô tả dưới góc độ bi hùng. Nhưng anh không nhắc đến trận Ấp Bắc và không nói đến Hạ Lào.
Phan Nhật Nam: Bạn nhận định tôi hơi quá đáng và không chính xác. Tôi tin tưởng vào “Hòa bình sắp tới… Lời cam kết của Nixon…” như thế nào, ở đâu? Lẽ tất nhiên, thuở ấy (1973, 1974…) tôi không đủ chín chắn, kinh nghiệm, khôn ngoan (hơn chính mình) của hôm nay (khi đã qua tuổi 60) được đọc hồ sơ giải mật của Bộ ngoại giao Mỹ, qua đó Kissinger đã nhân danh Tổng Thống Nixon, cam kết với Chu Ân Lai từ tháng 7/1971: Mỹ Không bao giờ trở lại Việt Nam. Năm tháng sau, tổng thống Mỹ mới gởi những thư cam kết đến ông Thiệu (!). Nhưng ít ra lúc ấy, tôi đã viết nên lời, đấy là: “Một Hòa Bình ngụy danh… Toàn thế giới đồng hân hoan chúc tụng trên bàn tiệc máu Việt Nam… Không một ai trong chúng ta xác định được Hoà Bình (luôn viết hoa) đã có. Vâng, Hòa Bình (vẫn viết hoa) chỉ tới với một văn kiện, trên bàn giấy an lành ở thủ đô Ba-lê, trong đáy cốc…” Viết như thế, gặp thẳng mặt người Việt Cộng tại bàn Hội nghị nơi Tân Sơn Nhất, nghe tận tai những lời “Nếu một vị đại tá Thọ nào đấy của quý vị bị bắt ở mặt trận Nam Lào thì ‘có lẽ’ do quân đội Giải Phóng Lào bắt giữ… Chúng tôi sẽ liên lạc với Quân Giải Phóng Lào để thông báo đến quý vị trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc…” trong khi bản thân đã chụp được hình của Đại tá Thọ (Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù, bị bắt ở mặt trận Hạ Lào, tháng 2/1971) trên đường giải ra Bắc trong tập báo Ảnh Việt Nam! Biết như thế, viết như thế làm sao mà tin được vào “hòa bình – Không đủ ‘gan lì’ để viết hoa được nữa” hở người bạn trẻ?
   

Còn Cục Tâm Lý Chiến là nơi đâu, tác động gì trong những nội dung tôi đã viết… Nếu có bước vào nơi chốn ấy vì đấy là tòa soạn báo Diều Hâu, nơi những huynh trưởng thân hữu, chiến hữu tập họp… Ít nhất, những người chỉ huy TC/CTCT/QL/VNCH (bao gồm Cục An Ninh Quân Đội) cũng có được sự dễ dàng nầy, chứ ở Hà Nội trước 1975, hay hiện nay nơi Sàigòn (đổi tên thành TP.HCM) thì đừng có hòng, tan thân ngay! Và không ai đem sinh mạng bản thân và gia đình để đánh đổi bởi một “sự (tự) lừa dối trong chữ nghĩa”… Hay bạn đã có ý nghĩ: Tôi “đã chọn lựa” ở lại Sàigòn sau 30/4/75 để (vô tình hay hữu ý) hiện thực “sự tự đánh lừa ‘một cách thành thật’ qua chữ nghĩa của mình” nên lâm vào thế kẹt do tự thân giăng ra? Không đâu. Tôi không đủ sức để liều lĩnh như thế với mạng sống của vợ con. Nhưng quả thật, tối 28 rạng 29/4/75 tôi có mặt và phụ trách việc đưa người lên phi cơ trong cơ quan DAO, nếu quyết tâm ra đi do ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân thì tôi đã lên trực thăng CH46 của TQLC Mỹ ra hạm đội 7… Sáng 29, tôi đứng trước Tử Sĩ Đường Không Quân, phi trường Tân Sơn Nhất, bên hông trại Trần Quý Mại (tiểu đoàn 8 Dù) nhìn lên trời, chụp hình chiếc phi cơ AC-119 Hỏa Long của trung úy Nguyễn Văn Thành (Thiếu sinh quân “Thành mọi”) cháy trên trời xanh với chiếc dù của Thành mắc nơi cánh… Tôi vẫn có thể đi theo Bộ tư lệnh Sư đoàn Dù ra bến tàu. Nhưng sự việc ở lại có một nguyên cớ quyết định sâu xa, kỳ lạ khác (hoàn toàn không có tính chính trị, giải thích bởi luận lý thông thường). Bạn đọc Crime et Châtiment, đoạn Raskolnikov giết xong mụ cầm đồ Alyona, chạy ra cầu sông Neva, nhớ lại “phút bất ngờ” ngày hôm trước khi anh ta qua Chợ Hàng Rơm nghe ra chi tiết, “cô em Lizaveta ‘sẽ vắng mặt’ ở phút giây ‘định mạng chết người ấy’ thì hiểu ra tình thế, tâm cảnh của tôi với những phản ứng “không thể nào lường, không thể giải thích” tại mỗi giây, phút của trước, sau 30/4/75. Nhưng tôi không hề “ân hận than trách” về quyết định chết người ấy. Cũng bởi bây giờ thì đã “thấm hiểu” – Tất cả đã được báo trước từ 1946 tự giấc mơ đầu đời (vẫn luôn nhớ/sống cùng hiện tại); trong Lời dẫn nhập của Dấu Binh Lửa, viết năm 1968: “…Những giấc mơ hôm nay thường dẫn đến chủ đề NƯỚC… Tôi bị ‘mắc kẹt trong nước’ của cống rãnh…’” hoặc hiện thực ngay trong tên họ: Phan Nhật Nam = Phạm Nhân Nan = Phạm Nan Nhất. Trung úy thực thụ từ tháng 6/1965 sau trận Đồng Xoài, đến 1975 mới được cấp bậc đại úy nhiệm chức thì làm gì phải đi tù đến 14 năm, chuyên ở phòng cấm cố tử hình! Giờ lại bị những kẻ bá vơ vô lại nào đó không một ngày chiến trận, không hề chịu một giờ, khắc tù tội, không một chút kinh nghiệm với cộng sản… nơi vùng Nam Cali, nước Mỹ qua những đài phát thanh, báo quảng cáo địa phương, trên hệ thống Net cáo buộc gán cho tiếng “cộng sản nằm vùng”! Như thế là thế nào… Nhưng cũng không hề gì, đã qua khỏi tuổi 60 thì mọi chuyện coi như “thuận nhĩ”. Tôi không theo cách ai khác hơn từ ông niên trưởng – nhà văn rất mực thuần lương – Doãn Quốc Sỹ, điển hình Kẻ Sĩ cuối cùng của thời mạt pháp nầy.   
Nhưng nếu cho “làm lại”, thì tôi cũng sẽ sống như thế/viết như thế. Nguyên tắc tình báo có “tính xác suất” là: Giữa muôn ngàn nguồn tin – hai nguồn tin giống nhau, PHẢI là nguồn tin THẬT – Cũng thế, Chân-Thiện-Mỹ chỉ có MỘT. Tôi cũng sẽ viết lại trận Đồng Xoài (11/6/1965) của tiểu đoàn 7 Dù với hậu quả 14 sĩ quan từ tiểu đoàn trưởng đến trung đội trưởng tử trận, phần còn lại số bị thương, bị bắt làm tù binh. Năm đại đội trưởng còn lại mỗi Đại úy Lê Văn Phát, Đại đội trưởng 74. Tôi sống được là do “hên”, bị thương trước khi tiểu đoàn vào trận. Trận Tây Nguyên năm 1972 cũng sẽ viết lại chính xác hơn để kể về sức chiến đấu thần kỳ của lính nhảy dù Miền Nam. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù do Trần Công Hạnh (khóa 20 Đà Lạt) chỉ huy, một thân giữ vững cao điểm Delta đánh bật trung đoàn 52 Sư đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng, thành lập từ 1951, đơn vị nổi danh của bộ đội miền Bắc), dẫu trung đoàn nầy đã đánh vào đến bộ chỉ huy tiểu đoàn (30/3/1972), nhưng Hạnh quyết định gọi phi pháo đánh trùm lên căn cứ, cùng các đại đội trưởng tài trí dũng cảm tổ chức lại đội hình phản công. Hạnh cũng đã thực hiện tương tự một lần như thế ở mặt trận Hạ Lào, tháng 2/1971, khi đưa đơn vị rút ra khỏi Đồi 30 dẫu khi ấy chỉ mang cấp đại úy, chức vụ sĩ quan hành quân. Rút kinh nghiệm thất bại về trận đánh căn cứ Delta với Tiểu đoàn 2, thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, tư lệnh mặt trận B3 điều động trung đoàn 64, tăng cường hai tiểu đoàn của trung đoàn 48, hiệp đồng đánh chiếm cao điểm Charlie do Tiểu đoàn 11 Dù trấn giữ… Hệ thống trận địa quanh căn cứ Charlie mỗi cao độ chỉ do cấp đại đội với quân số cơ hữu dưới 100 người phải chống cự những đợt tấn công cấp trung đoàn cộng gồm 6 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn có 4 đại đội tác chiến) dưới quyền chỉ huy của Khuất Duy Tiến, trung đoàn trưởng trung đoàn 64 – đơn vị đánh trận Hạ Lào, từng đối mặt với lực lượng nhảy dù. Tương quan quân số trận đánh Charlie như thế là “1 chống 6”. Khi tấn công mỗi cứ điểm, tỷ lệ nầy tăng lên, 1 (đại đội ND) chống 8 (hai tiểu đoàn CS); hoặc 1 chống 12 (ba tiểu đoàn CS). Tất cả chi tiết chiến thuật nầy do Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp kể lại trong Ký ức Tây Nguyên, nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2002, trg 236-244. Trong Từ điển Bách khoa Quân sự, nxb QĐND, Hà Nội 2004, phần chiến sử năm 1972 của Sư đoàn 320 không được kể ra. Sáng 30 tháng 4, 1975 những người chiến đấu cuối cùng trên cầu Sàigòn không ai khác là những người lính của đơn vị đầu đời, Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919, do người bạn cùng khóa, Trung tá Nguyễn Lô, danh hiệu truyền tin “Sông Lô” chỉ huy. Cùng lúc, khi Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng, tôi đứng ở đường Lê Văn Duyệt trước trại Nguyễn Trung Hiếu, Tiểu đoàn 1 Dù với Trần Công Hạnh, Tiểu đoàn trưởng đơn vị vừa kể bên trên. Với những người, đơn vị kiên cường như thế, những người bạn dũng lược như thế, những người lính xả kỷ như thế… tôi có thể viết như thế nào khác.
Mùa hè 1965, mặt trận Tây Nguyên bùng vỡ, Thiếu tá Schwarzkopf (Đại tướng tư lệnh chiến dịch Bão Sa mạc tại Iraq 1991) cố vấn cạnh Trung tá Ngô Quang Trưởng, Tham mưu trưởng Lữ đoàn Dù (đến cuối năm mới nâng cấp thành sư đoàn). Cấp bậc thiếu tá, nhiệm vụ cố vấn không phải phụ trách việc cứu trợ thương binh, nhưng ông đã cùng y tá tiểu đoàn 3 Dù dìu một thương binh ra khỏi trận địa pháo kích nơi trại Lực lượng đặc biệt Đức Cơ – hình do Peter Arnett (Associated Press) chụp. Arnett không phải là người ưu ái hỗ trợ cuộc chiến đấu của QLVNCH, Thiếu tá cố vấn Schwarzkopf hẳn không thể căng thân đi cứu một người lính cấp hàng binh của một đơn vị kém cỏi, tầm thường. Phải thấy sức chiến đấu của lính nhảy dù Việt Nam ra sao mới hiểu được mối động lòng cảm phục từ người chiến hữu Đồng Minh trung trực kia vậy. Tôi tiếc đã không viết đầy đủ hơn, chi tiết hơn về những trận đánh nơi Miền Nam trước 1975 của những chiến hữu, đơn vị thiết thân.

   

Trận Ấp Bắc cuối 1962, đầu 1963 tôi chưa ra trường; trận Hạ Lào (2/1971), tôi chuyển đi làm sĩ quan văn phòng ở tiểu khu Bà Rịa (Phước Tuy). Chiến dịch nầy quá lớn nếu có trình bày cũng không thể viết dưới dạng bút ký – phải viết theo cách nghiên cứu, liệt kê tài liệu quân sự. Bernard Fall không thể viết Un coin d’enfer theo kỹ thuật lịch sử tiểu thuyết như La Quán Trung kể trận Xích Bích với Chu Du, Khổng Minh… nhưng sau nầy, cũng đã có Phan Hội Yên (tiểu đoàn 3 Dù) kể trận đánh Đồi 30, Phạm Văn Tiền (tiểu đoàn 2 TQLC) nói về lần triệt thoái tàn khốc khỏi căn cứ Delta của Lữ đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến VNCH trong trận chiến Hạ Lào. Hai người bạn nầy không phải là cây viết chuyên nghiệp, nhưng diễn tiến chiến trường họ viết ra chính xác và hay hơn bất cứ chuyện kể (về chiến trận) nào của người miền Bắc như Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh; Nguyễn Tri Huân, Tháng Ba 1975 Họ đã sống như thế… Văn phong và cách đặt tiêu đề thôi cũng thấy hơi hám của “Thép đã tôi thế đấy” của Liên-Xô. Tiểu thuyết Nga vĩ đại do đã dựng nên những nhân vật tiểu thuyết đặc trưng bởi Dostoievsky, Tolstoy chứ đâu từ anh trẻ tuổi Pavel làm cách mạng xã hội chủ nghĩa với chân trần đứng xúc tuyết. Tìm đâu ra trong chiến tranh miền Nam một du kích ở Quảng Ngãi chỉ với vũ khí tự chế bắn hạ máy bay trực thăng, đánh tan một đại đội bộ binh Mỹ như trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm? Và tìm đâu trong thực tế mà tiểu thuyết được quảng bá rùm beng của Bảo Ninh đã mô tả về “thằng giặc Mỹ xâm lược bạo tàn” sau Hiệp định Paris 1973; “thằng ngụy dù” với chiếc nón đỏ mắc ở cầu vai khi đi hành quân! Người thường trực sống, chết nơi chiến trường (lại là chiến trường Việt Nam với máu xương của chính mình, đồng đội, đồng bào, kể cả đối phương cùng màu da, sắc tộc) đọc những nội dung tuyên truyền tầm phào nầy không khỏi đỏ mặt vì ngượng, thấy mình bị coi thường, đánh lừa bởi những kẻ ngây ngô, thô thiển. Lính biệt kích miền Nam hoạt động nhảy toán phải áp dụng một tiêu lệnh tối thượng: Tuyệt đối tránh đụng độ / Xóa sạch dấu tích, sinh hoạt / hiện diện… Thế thì làm sao lại đi hiếp dâm, cắt đầu vú, vạch nát cửa mình nữ bộ đội trên đường dây giao liên như trong Tiểu thuyết Vô đề Dương Thu Hương đã mô tả? Thế nên, vì không muốn phải mang lỗi viết dối nên tôi không viết về Ấp Bắc, Hạ Lào như đã sống – Chỉ có thể viết về những chiến trận nầy như đã đọc mà thôi nên đã viết tiểu luận quân sự Hạ Lào… Quá xa (2002). Trong tinh thần nầy, tôi cũng đã hoàn tất được một phần của tập Chiến sử (1954-1975) dự trù, nhưng phải bỏ dở…
Có một chi tiết về chiến tranh Việt Nam mà không một ai để ý viết ra, nói đến: Phía bộ đội cộng sản không hề bắt được một tù binh Mỹ thuộc quân chủng bộ binh, binh chủng thiết giáp, pháo binh (những đơn vị yểm trợ quân bộ chiến) chứ đừng nói TQLC, Nhảy dù, Lực lượng đặc biệt Mỹ – 519 cộng với 10 người bị bắt ở mặt trận Lào, người trả tại Hà Nội thuần là phi hành đoàn Mỹ và vài nhân viên phi hành các nước ngoài (Thái, Phi Luật Tân…) tháp tùng các phi vụ B52. Phía cộng sản nhận về: 26,508 người (danh sách tiên khởi; bổ túc lên 26,750 cuối tháng 3/1973); VNCH nhận: 5,081. Những số liệu nầy do Tiểu ban Tù binh/Ban Liên hợp Quân sự/VNCH (bản thân cá nhân là thành viên trung ương mang danh số #41) đúc kết, thiết lập kế hoạch trao trả, và thực hiện trao trả khắp các địa điểm từ Năm Căn đến Hà Nội. (Tù binh và Hòa bình, trg 166-167)
Số hiệu cụ thể về tù binh mỗi bên đã chỉ cho thấy: Chiến tranh chống Mỹ là gì? Ở đâu? “Ai thắng Ai” trong mặt trận quân sự. 
              

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire