Có phải ý nghĩa của tấm bảng số xe ấy là: "Hồi năm xưa tư bảy năm là... A…a…a… hiểu ra rồi.
Năm Xưa hồi tháng Tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm là năm Sài Gòn đứt phim, là năm bao nhiêu đớn đau chia cách, ngậm đắng nuốt cay, là năm biết bao nhiêu người dành nhau chỗ ra đi, đứng lố nhố trên lòng tàu, tuôn ra biển cả, ngó về đất liền, xót xa gia đình, chia lìa vợ con, bỏ lại cha mẹ già anh chị em, lênh đênh dạt tới một phương trời vô định.
... Năm xưa
... Năm xưa, bốn bảy lăm.
Trời đất ơi bây giờ là tháng Tư, là tháng gợi nhớ lại mỗi năm, ngày này năm xưa, mới đó, đã gần nửa thế kỷ rồi.
Năm 2009, tin tức về chuyện một chiếc tàu hàng bị bọn hải tặc Somali chiếm, bắt ông thuyền trưởng làm con tin, người nhái Hải Quân Mỹ đã cứu thoát ông sau khi bắn chết 3 tên hải tặc.
Chuyện “Tháng-Tư-Đen” của năm 1975, chuyện vượt biên, chuyện hải tặc và những thảm cảnh trên biển Đông, năm nào cũng trở về làm nhói lòng, đau tim.
Ngày nay, chính quyền Mỹ bảo vệ dân chúng, tìm đủ mọi cách để diệt bọn hải tặc. Ngày xưa dân tị nạn Việt Nam dập dình trên biển Đông, bao nhiêu hải tặc đã giết chết bao nhiêu người, nào ai biết?
Hồi năm 1985, cô Ba học trường dạy nghề thẩm mỹ, quen cô bạn nhỏ. Chuyện đau lòng của em làm cô nhớ hoài, như vầy:
...Cuộc vượt biên của Linh là chuyện chết sống.
Chẳng là, một người bà con của Phượng đi chung chuyến ghe với Linh. Xém chút thì người em bà con của Phượng đã tiêu mạng trên biển Đông rồi nếu không nhờ phúc đức ông bà, cùng lòng tin Thượng Đế của tất cả những người trên tàu cầu Chúa khấn Phật, trong giờ phút thập tử nhứt sanh, hết hy vọng thì quới nhơn tới, một chiếc tàu đánh cá Nhựt chạy ngang, làm tụi dân chài Thái Lan chuyển thành cướp biển, bỏ chạy, tất cả người trên chiếc tàu tỵ nạn được vớt lên, đem thả vô trại, mới còn sống tới ngày nay.
Năm đó Linh mới mười bốn tuổi. Khi tụi đầu trâu mặt ngựa lôi Linh qua tàu của chúng, ai cũng tưởng sau khi thỏa mãn thú tánh, đã quăng Linh xuống biển phi tang rồi, ngờ đâu nó còn chút lương tri, liệng cô bé tơi tả trở về ghe.
Mấy năm sau, Linh cũng được đi học chữ, nhưng em bỏ nửa chừng. Mẹ ghi danh cho em học nghề thẩm mỹ, nói là muốn em có một nghề tự nuôi sống. Linh tự nguyện sau khi có việc làm rồi sẽ ra riêng, sống một mình.
Nhiều lần Phượng cố bắt chuyện, cố tìm hiểu, nếu nói theo người Mỹ thì là Phượng muốn "Reach out" nhưng Linh lúc nào cũng một câu duy nhứt "Em không muốn nhắc tới chuyện xưa"
Ngày đó, thấy Linh cứ nhìn ra cửa sổ, thở dài, Phượng ân cần khuyên Linh hay là đi bác sĩ về bịnh tâm thần, Linh buồn buồn lắc đầu "Hồi đó em có đi rồi, hổng ăn nhằm gì hết chị ơi.
Hồi Sài Gòn mất, trong xóm em có mấy thằng công an dễ ghét. Có một thằng, ngày nào cũng dợt ngang nhà em, miệng réo eo éo ngọng nghịu: "A Nìn ơi a Nìn..." làm Má em sợ phải tính chuyện cho em vượt biên trước chớ không thôi thì em đâu có muốn đi một mình vậy”
Trên biển em gặp nạn...
Khi gia đình em vượt biên qua được, biết em bị bịnh, mấy lần má dẫn em đi ông thầy kia để trị. Ổng bắt em ngồi xếp bằng như ngồi đồng, ổng ếm ổng đọc thần chú gì đó rồi biểu em phải cắn răng ráng chịu đau rồi ổng lấy cây nhang đang cháy đỏ châm lên đầu em. Em ráng chịu đau. Mà lạ, nghe mùi khét của tóc của da mà em cũng hổng thấy đau gì lắm. Ổng châm cho em bốn dấu trên đầu. (Vừa nói Linh vừa vạch tóc ra cho Phượng coi)
Trời đất ơi, ngày xưa Phượng cũng đã từng thấy những người tu, ngồi thiền để châm nhang trên đầu. In là, có nhiều dấu nhang châm chừng nào là lên tới chức Hoà Thượng cao hơn gì đó, Phượng không có đạo nên hổng rõ. Nhưng, đó là những người tu hành kìa, còn Linh, thinh không ngồi đó để người ta châm nhang đốt cháy có thẹo mấy lỗ vậy, đau thấy ông bà ông vải chớ bộ.
Vậy mà Linh nói "Hổng đau gì mấy"
Linh kể tiếp “Ai cũng nói chắc đầu óc em hư rồi mới hổng biết đau tại vì cách trị nầy là để kích thích dây thần kinh của em.
Về sau thấy hổng hết, em cứ lâu lâu ngồi ỳ một chỗ hổng nói chuyện với ai hổng muốn ăn uống gì hết, dì em mới bàn thôi bây giờ trị theo “Ta” hổng hết thì phải trị theo “Tây”. Dì đưa tới bà bác sĩ Mỹ nầy chuyên về thần linh học và có thể thôi miên. Bả có bằng cấp đàng hoàng treo trên tường chớ hổng phải khơi khơi à.
Bữa đó tới nơi bả mời em vô văn phòng để bả dùng thuật thôi miên trị bịnh cho em.
Thiệt tình trong nhà, ai cũng nói em có bịnh tâm thần, em cũng muốn hết bịnh cho rồi để sống bình thường như người ta nên em ráng nghe lời.
Ngồi trên cái ghế nệm, bả nói nếu em muốn nằm xuống cho thoải mái thì cứ việc nằm. Em chỉ ngả đầu dựa vô ghế thôi. Ban đầu bả hỏi em tên gì bao nhiêu tuổi nhà ở đâu, đại khái sơ sơ thân thế rồi bả hỏi tại sao em tới đây, em nói em tới tại vì em muốn hết bịnh.
Bả kêu em hãy tưởng tượng em đang mang một cái ba lô nặng thiệt là nặng trên lưng, từ từ lột bỏ nó ra, cho rớt xuống đất. Ngồi đó thoải mái mơ màng nhắm mắt lại nghe giọng nói ngọt ngào dịu dàng của bả em từ từ thấy người nhẹ nhõm thiệt. Rồi bả hỏi em thích khung cảnh nào nhứt? lửng lơ trên mây, bồng bềnh trên nước, hay là gì? em nói em không thích bay cao cũng không thích nước, em chỉ thích chạy trên đồi cỏ xanh, mọc đầy bông dại.
Bả nói em đang chạy trên đồi cỏ rồi đó, em cũng thấy em đang chạy trên cỏ, bả hỏi em thấy hoa dại chưa em nói thấy rồi, bả hỏi bông em thấy đó màu gì, em nói màu tím. Bả hỏi tím cỡ nào em nói tím đậm như màu tím hoa “pensée” và tím lợt như màu hoa cà, bả hỏi em còn thấy màu gì trên đồi cỏ không em nói em thấy thêm bông cúc dại màu vàng, rồi bông nho nhỏ màu trắng. Bả nói tốt lắm. Bả biểu em hãy hít thở mùi hoa dại vô cho đầy phổi. Em làm theo, tự nhiên em thấy khỏe khoắn, sảng khoái...
Bả hỏi em thấy ai gần đó không, em nói chớ có ai, chỉ một mình em thôi. Bả nói bộ em không thấy một người bạn gái hay bạn trai của em sao? Em nói bạn gái em có một đứa nhưng nó chết hồi vượt biên rồi, em không có bạn trai. Bả nói hãy tưởng tượng một người bạn trai theo đúng ý em.
Tự dưng, chị ơi, em bật khóc, la toáng lên giãy giụa đá lung tung đổ bể đồ đạc trong phòng làm bả hết hồn, bả vội kêu em tỉnh lại, tỉnh lại, tôi đếm một hai ba hãy chạy ra khỏi cái đồi cỏ xanh đó đi...
Kể tới đó Linh khóc. Chị biết em thấy gì không? Khi bà thầy kêu em tưởng tượng ra người bạn trai, em chẳng tưởng tượng ra ai được mà em chỉ thấy lại mấy thằng khốn nạn trên chiếc tàu ngoài biển bu xung quanh em... Em sợ điên lên...
Từ đó về sau không ai dám biểu em đi chữa bịnh gì nữa hết.
...
Tội nghiệp người con gái. Còn biết bao nhiêu người như Linh?
Năm đó, em đang tuổi thanh xuân, mớ tuổi đẹp nhứt của người con gái, sao phải sống âm thầm với những hình ảnh hỗn loạn đau đớn như vậy?
Đó là chuyện của người thiếu nữ, còn một chuyện nữa về người thanh niên mà cô Ba đã gặp vào năm 1979.
Cái bao ni-lông
Năm đó, cô làm trong một hãng chuyên may những đồ dùng trong bếp như cái khăn ăn, miếng nhấc nồi, chảo, tấm trải bàn, khăn lau dĩa v...v...
Hãng may hiệp sức với Hội Thiện Nguyện của nhà thờ, nhận một số “Thuyền nhân/dân tỵ nạn đường bộ” từ các trại tỵ nạn qua Mỹ, giúp đỡ, huấn luyện và cấp cho việc làm. Cô Ba làm việc thông dịch giúp Hội Thiện Nguyện. Đa số phụ nữ vô hãng may làm. Họ ngồi may, còn thanh niên thì làm những chuyện nặng hơn như khiêng hàng vải, vô bao vô thùng.
Có một người đàn ông mới qua, thấy anh quá ốm yếu xanh xao, có vẻ lớn tuổi vì mái tóc chỗ đen chỗ bạc, hãng giao cho anh vài việc nhẹ nhàng như đếm vải đã cắt rồi, thành từng chục, để lên máy, sẵn sàng để các chị may. Khi đọc hồ sơ mới biết anh rất trẻ, mới hai mươi. Có lẽ bị trải qua nhiều khổ cực nên trông cậu già trước tuổi như vậy. Rồi một ngày, người chuyên vô bao những lố khăn ra hàng, dọn nhà qua tiểu bang khác, hãng giao cho cậu việc làm này. Ai cũng nghĩ là anh này may mắn, mới vô mà được chỗ ngon, nhẹ nhàng. Công việc không khó khăn, không cần biết nhiều tiếng Anh, chỉ là đút nguyên lố đồ đã xếp sẵn vô cái bao nylong rồi ập máy xuống, sức nóng ép, khép miệng bao lại, bịch đồ rớt vô thùng.
Bữa đó, cô Ba là người có phận sự chỉ dẫn cậu cách làm. Mới đầu, tưởng cậu chưa quen khí hậu nên bị lạnh hay sao mà y đứng xa xa, co ro, hai cánh tay quấn lại với nhau, mắt không nhìn thẳng. Cô mới thân thiện kêu cậu lại gần, nói là, để tui chỉ cho cậu cái nút nào nhấn máy xuống, ép miệng bao lại, cái nút nào bấm liền để tắt máy trong trường hợp khẩn cấp, chỗ này nóng, đừng đụng tay vô, phỏng. Vậy vậy...
Dặn dò xong cô làm thử cho cậu coi. Làm vài cái, nghĩ là cậu có thể tiếp tục, cô mới đứng tránh qua một bên cho y bắt đầu. Khi cậu nhét lố khăn vô cái bao nylong, thấy hai tay y run lên, khi ập cái máy xuống đặng hàn miệng bao lại thì y xuất mồ hôi, run bắn người, mặt xanh xám, mồ hôi nước mắt xuất ra, ngã quỵ xuống bất tỉnh nhân sự. Hết hồn, cô kêu cứu.
Khi cậu tỉnh lại trong nhà thương, nghe người bảo trợ cậu từ nhà thờ tới giải thích, cô Ba mới biết tự sự.
Cậu có người em trai song sanh, gia đình ở Hà Tiên, ngay biên giới Miên Việt. Khi biết là không thể sống yên lành trên quê hương được nữa, gia đình cho hai anh em vượt biên bằng đường bộ qua ngả Miên. Dọc đường hai anh em bị Miên Cộng bắt. Tưởng thoát lũ yêu, lại gặp lũ quỷ. Bị chúng khảo của, có gì mà đưa? Chúng bèn trói hai anh em lại, giật ngược ra sau.
Chúng giết người em trước bằng cách bao cái đầu lại bằng bao ny-lông. Khi người em ngưng giẫy giụa, chúng tiếp tục khảo tới cậu. Cậu chẳng có con... gì mà đưa, tức giận, chúng nó bọc đầu cậu lại, siết dây cột chặt, bỏ đi. Trời còn thương hay sao, cái bao có một cái lỗ nhỏ đâu đó, cậu chỉ bất tỉnh. Khi mở mắt ra, hớp làn không khí đầu tiên, cậu đau đớn nhìn thân thể của em, thân thể rúm ró ốm o gầy mòn. Em đã bỏ anh lại địa ngục của địa ngục trần gian.
Từ đó cậu như người chết chưa chôn.
Cô mới hiểu, vì sao cậu sợ khủng khiếp, vì sao chỉ đụng nhẹ vô cái bao nylong, cậu chết ngất. Cả đời cậu, chắc chắn là sẽ không thể nào đụng vô cái bao nylong mà không nhớ tới cảnh hãi hùng của đêm hôm đó trong rừng sâu. Cậu vẫn đau cái đau của người em, tinh thần cậu cũng đã chết theo cái chết của người em song sanh.
...
Sài Gòn sau bảy lăm, miền Nam đã bị xé nát. Có thể nào, dân miền Nam bị đẩy ngược lại thời nguyên thủy? Tục truyền rằng, thời tạo thiên lập điạ, bà mẹ Âu Cơ sinh ra trăm cái trứng. Nở trăm người con. Năm chục con lên rừng năm chục con xuống biển xây dựng cơ đồ Con Rồng Cháu Tiên.
Bọn nào tàn bạo, đã tống bốn chục "cái trứng" lên rừng, đày đọa, học chữ "hoà bình" thành những thân xác khô; chúng "giải phóng" bốn chục "cái trứng", đẩy luôn xuống biển cho dập dềnh trên biển Đông như những dề lục bình trôi, trôi đi tận chân trời góc biển. Hai chục cái trứng còn lại bị chúng lùa đi nghiêng ngả theo dòng đời.
Rồi những thảm cảnh "trăm cái trứng" phải chịu đựng dài dài.
Từ quê hương hay trên đất khách, nhiều "cái trứng" đã sống đói khổ dật dờ, quay cuồng trong cơn lốc, như lời của nhà thơ Phùng Quán nói:
Chín người - mười cuộc đời rạn vỡ
Bị ruồng bỏ và bị lưu đày...
Bây giờ, đã tuyên bố chữ đổi mới, sao còn những cảnh đàn áp?
Sao còn những bàn tay bụm miệng người, không cho nói lên sự thật?
Sao còn cướp vườn cướp đất của dân?
Sao còn có người nghèo đói thế kia?
Sao còn thò tay mặt đặt tay trái, đưa dân qua xứ khác làm nô lệ?
Sao còn những người thiếu nữ tuổi xuân mơn mởn, trần truồng đứng trước đám đầu trâu mặt ngựa cho chúng chọn lựa khen chê và, mua em?
Sao còn nhiều quá?
Những người thiếu nữ đứng trên mảnh đất quê hương của mình bây giờ, có gì khác với em Linh ngày xưa? Những người con gái tội nghiệp, mất hồn mất vía trên ngọn sóng thần của biển Đông?
Và, có người mẹ, thuyền lạc trên biển nhiều ngày, con đói lả, mẹ không còn sữa, đã rạch đầu vú, cho con bú những giọt máu của mình!.
Và, có bao nhiêu người đã phải chứng kiến, cảnh người thân của mình chết đi nhưng thân xác đã nuôi sống được người còn lại?
Cô Ba thở dài. A…a…a....
Lòng cô như cái lu đựng nước mưa nước sông lóng phèn. Nước trên trời đổ xuống, nước dưới sông kéo lên, đổ vô lu, bỏ cục phèn chua vô. Cặn bã bị phèn chua lóng dưới đáy. Khi múc nước xài, phải cẩn thận, phải chừng mực, đừng khuấy nước, bởi vì, một khuấy động nhẹ nhàng cách mấy, cặn bã đó cũng trồi lên liền.
...
Theo năm tháng, bao nhiêu vết thương của "trăm cái trứng" tuy có phôi phai nhưng sự đau đớn trải qua bao gió cát nắng mưa, càng ngày càng khoét sâu như chữ khắc trên đá.
Gần nửa thế kỷ. Dễ gì quên!
Sài Gòn, 5XUA475
Hoa Kỳ, 5NAY… ./.
Trương Ngọc Bảo Xuân
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire