Bộ phim tài liệu The Vietnam War được
thực hiện bởi hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Norvick, hiện đang được phổ
biến rộng rãi trên truyền hình NRK (NaUy) và được một số báo chí thiên
tả NaUy tán thưởng. Bộ phim này cũng được trình chiếu tháng trước trên
hệ thống truyền hình PBS tại Mỹ, đã tạo nên làn sóng tranh cãi, nhiều
phản bác hơn là ngợi khen, từ những người Mỹ lẫn người Viêt. Người ta
công nhận The Vietnam War có khá hơn nhiều so với Vietnam – The Ten
Thousand Day War (của Michael Maclear) trước đây, tuy nhiên nó vẫn là
một bộ phim tồi. Những người thực hiện vẫn tiếp tục đi theo lối mòn định
kiến của giới truyền thông Mỹ. Trong khi đa phần những người trong
cuộc, từng tham dự và bị nhiều hệ lụy từ cuộc chiến ấy, dễ dàng nhận ra
sự thiên lệch, thiếu chính xác của cuốn phim, từ trong tư tưởng, tài
liệu, hình ảnh đến việc phỏng vấn và mục đích thực hiện.
1/- Trước hết, nên biết Ken Burns, người thực hiện The Vietnam War là ai?
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Ken Burns là một thành viên đắc lực
của phong trào phản chiến. Ông là một người theo phái tả, và triệt để
ủng hộ Đảng Dân Chủ.
Với một người như thế, tất nhiên Ken Burns luôn mang nặng thành kiến về
cuộc chiến Việt Nam. Chính những người phản chiến như ông đã tạo nên một
nhận định khá phổ biến “Cuộc chiến Việt Nam không thua tại Việt Nam nhưng đã thua tại Hoa Kỳ”.
2/- The Vietnam War dựa theo những tài liệu, hình ảnh nào, do ai cung cấp?
Tất nhiên phần lớn dựa theo tài liệu, hình ảnh của Hoa Kỳ và của chính
quyền Việt Nam Cộng sản cung cấp. Ai cũng biết là các chính quyền CS
không bao giờ tôn trọng sự thực, nên tất cả mọi tài liệu, hình ảnh đưa
ra đều tô vẽ có lợi cho họ. VNCH không còn tồn tại, mọi tài liệu bị thất
tán, phá hủy, không còn tiếng nói để chứng minh lẽ phải về họ, mặc dù
chính họ mới là lực lượng chính trong cuộc chiến và đã phải nhận nhiều
hệ lụy nhất chứ không phải Hoa Kỳ.
3/- The Vietnam War đã phỏng vấn những ai?
Có 3 thành phần:
- Những người Mỹ, một số cựu chiến binh tại Việt Nam, nhân viên của
chính phủ, nhà báo, người có chồng, con tử trận tại Việt Nam, và có cả
những người thuộc thành phần chủ chốt trong phong trào phản chiến trước
đây.
- Những người Việt Nam trong nước. Hầu hết là những sĩ quan cao cấp, nhà
văn nhà báo phục vụ chế độ CS. Ai cũng hiểu rằng, khi những nhà làm
phim muốn tiếp xúc với họ đều phải qua chính quyền CSVN sắp xếp, chọn
lựa hay tối thiểu là phải có sự cho phép, và tất nhiên phải nói những
điều có lợi cho sự tuyên truyền của họ.
- Những người miền Nam (VNCH) đang sống tại Mỹ. Một số cựu sĩ quan, viên chức ngoại giao, và một vài người thành công ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong suốt cuốn phim, ai cũng nhìn thấy là họ được nói rất ít.
Một hai câu ngắn. Tất nhiên các nhà làm phim tìm họ để phỏng vấn, không
phải chỉ để hỏi một đôi câu ngắn ngủn như thế, nhưng chắc chắn những
lời nói của họ đã bị cắt bỏ, chỉ còn lại một vài câu có lợi theo quan
điểm của người làm phim. Ngoại trừ bà Dương Vân Mai Elliott, là nhân vật
được xuất hiện nhiều nhất và phát biểu lâu nhất. Bà là nhà văn, tác giả
cuốn sách “The Sacred Willow” được đề cử giải Pulitzer trong đó nói về
bốn thế hệ sống trong một gia đình Việt Nam. Bà gốc người Bắc, thân phụ
Bà làm việc cho Pháp. Năm 1954 cả gia đình di cư vào Nam, ngoại trừ
người chị cả ở lại cùng chồng tham gia kháng chiến. Năm 1960 bà được học
bổng, sang Mỹ học về ngành ngoại giao. Năm 1964, khi 23 tuổi, bà lập
gia đình với người chồng Mỹ cùng ngành và sau đó cả hai vợ chồng cùng
làm việc cho Rand Corporation ở Sài Gòn từ 1964 đến 1967. Với thân thế
như vậy, nên bà Dương Vân Mai Elliott hiểu biết khá tường tận về tình
hình chính trị và quân sự ở miền Bắc VN trước 1954, cũng như ở miền Nam
sau 1954. Tuy nhiên về sau này, từ giữa thập niên 1960, dường như Bà đã
có cái nhìn về cuộc chiến Việt Nam dưới lăng kính của một người Mỹ.
Một người đặc biệt nữa là Ông thẩm phán Phan Quang Tuệ. Ông là con
trưởng của Ông Phan Quang Đán, người sáng lập Đảng Dân Chủ Tư Do, luôn
quyết liệt chống đối chính phủ Ngô Đình Diệm và tham gia cuộc đảo chánh
bất thành 11.11.1960 (với vai trò ủy viên chính trị và cố vấn), nên bị
bắt cầm tù. Thời đệ nhị Cộng Hòa, ông ra tranh cử cùng liên danh với ông
Phan Khắc Sửu, trong chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng bị thua liên danh
Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ. Do đó trong The Vietnam War, con trai
ông, Phan Quang Tuệ, đã phát biểu tiêu cực về chế độ Ngô Đình Diệm cũng
như các chính quyền miền Nam sau này với lòng hận thù, thay vì với lương
tâm của một người trí thức.
4/- Không chính xác từ cách gọi tên cho cuộc chiến.
Ken Burns gọi cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến”. Điều này không đúng.
Nếu là một cuộc nội chiến thì đã không có 58.220 người Mỹ đã chết tại
Việt Nam. Chính vì sự méo mó này, mà trong suốt cuốn phim, không thấy đề
cập nhiều đến các nước Cộng sản, đặc biệt là Liên Xô và Trung Cộng luôn
là những quan thầy của CSVN và hỗ trợ hết mình để mang thắng lợi cho
miền Bắc CS. Trong khi Hoa Kỳ đã nhảy vào Nam Việt Nam và xem miền Nam
như là một tiền đồn của Thế Giới Tự Do, nhằm ngăn chặn làn sóng đỏ Cộng
sản bành trướng xuống Đông Nam Á. Hơn nữa, quân đội Nam VN (VNCH) chưa
hề đưa quân tấn công ra Bắc, họ chỉ bảo vệ miền Nam để xây dựng một thể
chế dân chủ tự do, không Cộng sản. Còn cái gọi là MTGPMN cũng chỉ là đám
CS nằm vùng, được cài lại miền Nam sau 1954, hoặc xâm nhập từ miền Bắc
sau này, được CSBV nặn ra nhằm lừa bịp quốc tế.
5/- Cách hành xử sai lầm và “kẻ cả” của Mỹ đối với một đồng minh, đã đưa đến sự thất bại tại Nam Việt Nam.
Không có một vị lãnh đạo và cả người dân miền Nam nào muốn có sự hiện
diện của quân đội Hoa Kỳ trên đất nước của họ. Chính Tổng thống Ngô Đình
Diệm đã từng cực lực lên tiếng bác bỏ ý định của Hoa Kỳ, ngay từ thời
Tổng thống J.F. Kennedy, muốn đưa quân vào Nam Việt Nam, và cũng chính
vì việc này đã đưa đến cái chết thảm khốc của anh em ông Diệm vào ngày
1.11.1963. (Mỹ đã đưa ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ để dàn xếp
một cuộc đảo chánh, và một sĩ quan cao cấp CIA, trung tá Lucien Conein,
ngồi ngay trong sào huyệt của Dương Văn Minh cùng các tướng lãnh phản
bội ông Diệm, tại Bộ TTM/QLVNCH, để trực tiếp giám sát, theo dõi việc
đảo chánh.)
Ông Diệm luôn phản đối việc Mỹ đưa quân sang Việt Nam, vì ông nghĩ như
thế sẽ làm mất chính nghĩa cho công cuộc đấu tranh của dân chúng miền
Nam bảo vệ tự do, và có cớ để Liên Xô và Trung Cộng vào cuộc, ra lệnh và
hỗ trợ miền Bắc đưa quân vào đánh Nam Việt Nam.
Nên nhớ là nền cộng hòa non trẻ của Ông Ngô Đình Diệm được xây dựng tại
miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, trên những đống tro tàn, rác rưởi và
nhiều phe nhóm bạo loạn của Pháp để lại, cùng lúc phải lo định cư cho
hơn một triệu người dân di cư từ miền Bắc, trốn thoát chế độ CS. Nếu có
đôi điều bất như ý cũng là lẽ tất nhiên. Nhưng đây lại là thời kỳ “vàng
son” nhất mà người dân miền Nam được hưởng, giáo dục, kinh tế và cả quốc
phòng phát triển tốt đẹp. Với kế hoạch Ấp Chiến lược, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã tiêu diệt và loại gần hết đám CS nằm vùng tại Nam VN, do CS
gài lại sau hiệp định Genève.
Và có lẽ Ông là người lãnh đạo quốc gia duy nhất trên thế giới đã tha
tội chết cho cả ba người từng giết hụt mình: Hà Thúc Ký, Phạm Phú Quốc
và Hà Minh Trí (người ám sát Ông tại Ban Mê Thuột)
So với Hồ Chí Minh, ông Ngô Đình Diệm yêu nước, thương dân và đạo đức
hơn gấp vạn lần. Ông sống độc thân, đạo hạnh, trong khi Hồ Chí Minh tự
xưng mình là “Bác” của toàn dân, bắt mọi người phải tôn thờ ca tụng
mình, nhưng đã từng sống với nhiều người đàn bà, ngay cả với vợ một đồng
chí của mình, và ra lệnh giết một cô con gái trẻ sau khi có con với ông
ta và cô ấy tỏ ý muốn được công khai chấp nhận. Một tội ác điển hình
của ông ta, khi ban hành Chiến dịch Cải cách Ruộng Đất, giết dã man
hàng vạn người dân vô tội, trong đó có cả bà Nguyễn Thị Năm, người bị xử
tử đầu tiên, là một ân nhân đã từng cưu mang ông cùng những cán bộ cao
cấp, và trợ giúp rất nhiều cho tổ chức của ông. Nhưng trong Tập 1 The
Vietnam War, người làm phim đã hết sức ca ngợi Hồ Chí Minh và bôi bẩn
hình ảnh ông Ngô Đình Diệm một cách ác ý đến lố bịch.
Mỹ đã lợi dụng một vài bất đồng của Phật giáo, đi đêm và đứng đằng sau
một số sư sãi quá khích, tạo nên tình trạng bất ổn liên tục tại miền
Nam. Nhưng thực chất, sau ngày mất miền Nam, đã lộ ra rất nhiều sinh
viên Phật tử đứng đầu các cuộc tranh đấu chống Ngô Đình Diệm vốn là
những đảng viên hoặc đã hợp tác với Cộng sản, như Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh… tại Huế, và
Đỗ Trung Hiếu, Đỗ Hữu Ưng, Lê Hiếu Đằng, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm…
tại Sài Gòn. (Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đã bị lật đổ, dù không còn
vịn vào lý do “đàn áp Phật giáo”, nhưng những người mượn danh Phật giáo
này vẫn tiếp tục phản đối các chính quyền kế tiếp, gây bất ổn cho cả
nước, đặc biệt tại Huế, miền Trung Việt Nam.)
Làm như vậy, chỉ với mục đích để Hoa Kỳ biện minh cho việc đưa quân vào
Nam Việt Nam, cũng như việc tổ chức lật đổ và giết ông Diệm, người luôn
phản đối việc Hoa Kỳ đưa quân vào Nam Việt Nam, và chỉ yêu cầu được viện
trợ trong thời gian miền Nam đang từng bước xây dựng nền cộng hòa non
trẻ. Hơn nữa, dù hùng mạnh và giàu có, nhưng quân đội Hoa Kỳ không thích
hợp với hình thái chiến tranh tại Việt Nam, lúc ấy đa phần là du kích
chiến.
Điều trịch thượng và “phi chánh trị” quái đản khác, từ khi đưa quân ào
ạt vào Nam VN, Mỹ mặc nhiên xem cuộc chiến này là của họ. Trong tất cả
các cuộc đàm phán, ký kết hiệp định, Mỹ tự cho mình ngang hàng với Bắc
Việt và xếp Nam VN ngang hàng với MTGPMN. Trong khi ai cũng biết rằng:
MTGPMN chỉ là một nhóm tay sai do Hà Nội dựng lên để lừa bịp quốc tế.
(Ngay sau khi vừa chiếm Nam VN, CS đã khai tử MTGPMN, tất cả những nhân
vật trong chính phủ của MT này không nhận được bất cứ một chức vụ quan
trọng nào, và bị loại dần ra khỏi guồng máy lãnh đạo). Điều đặc biệt tệ
hại hơn, Hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973 là một áp đặt trắng trợn để
ngay sau đó Hoa Kỳ phủi tay khi CSBV công khai ngang nhiên vi phạm.
6/- The Vietnam War quá bất công đối với QLVNCH, một quân đội đã bị bức tử, không còn tiếng nói.
Trong khi Mỹ có 58.220 quân nhân chết tại Việt Nam, thì QLVNCH có đến
trên 320.000 binh sĩ tử trận và khoảng hơn 1.200.000 bị thương. Trong
Tết Mậu Thân 1968, CSBV đã tung nhiều sư đoàn đánh vào nhiều thành phố
Nam VN, QLVNCH đã anh dũng chiến đấu và đập tan ý đồ của địch, gây tổn
thất rất nặng nề cho CSBV. Người ta không hiểu vì lý do gì, trong những
ngày đầu trong trận Mậu Thân, ở nhiều nơi, Mỹ đã không tham chiến? Và
mặc dù CSBV đã vi phạm thỏa ước hưu chiến trong ngày Tết nguyên đán, bất
ngờ tổng tấn công vào nhiều thành phố lớn, vậy mà đã không có khả năng
chiếm được bất cứ thành phố nào. Chỉ có Huế kéo dài 26 ngày, và CSBV đã
giết dã man hơn 6.700 người dân vô tội. Có tiến bộ hơn nhiều phim trước,
The Vietnam War có đề cập thoáng qua tội ác này của CSBV, nhưng chỉ nói
có khoảng 2.800 người bị giết kèm theo lời xác nhận và bào chữa yếu ớt
của một cựu cán binh CS.
Mùa Hè 1972, CSVN đưa một lực lượng quân sự hùng hậu, với xe tăng, đại
pháo tối tân của Nga sô cung cấp, từ miền Bắc và Lào xâm nhập Nam VN,
dùng nhiều sư đoàn thiện chiến, đánh vào Quảng Trị, Kontum và An Lộc.
Lúc này các đơn vị chiến đấu Mỹ đã rút khỏi Nam VN, chỉ có QLVNCH đã
chống trả mãnh liệt, tạo những chiến thắng lẫy lừng, giữ vững được các
tỉnh lỵ này và gây tổn thất rất lớn cho CSBV. Thời điểm này, Hoa Kỳ cũng
đã cắt giảm khá nhiều viện trợ cho Nam VN. (Thêm một điều cần nói:
QLVNCH luôn luôn được Mỹ viện trợ vũ khí, chiến cụ kém hiệu năng rất
nhiều so với vũ khí, chiến cụ của CSBV được phe CS trang bị.). Một câu
hỏi được đặt ra, trong Mùa Hè 1972 này, QLVN Cộng Hòa đã chiến thắng lớn
tại Kontum, An Lộc và cả Quảng Trị, nhưng trong The Vietnam War không
hề được nhắc tới, thay vào đó lại là hình ảnh của một lực lượng thuộc Sư
Đoàn 3 BB phải lui binh khỏi Quảng Trị?
Một cuộc chiến như thế, với những thành tích và sự hy sinh như thế,
nhưng trong The Vietnam War, cả một quân đội miền Nam ấy gần như cái
bóng mờ nhạt, nếu có đề cập, cũng chỉ là một vài hình ảnh tiêu cực.
- The Vietnam War chỉ đưa ra một vài trận đánh mà QLVNCH không may bị
nhiều tổn thất: như Trận Ấp Bắc, Trận Bình Giã… nhưng không hề nói đến
những chiến thắng lớn mà Quân lực này đã anh dũng đạt được tại các trân
chiến ác liệt như An Lộc, Kontum, Quảng Trị, v.v... hay Tống Lê Chân
(một tiền đồn nằm gần biên giới Việt-Miên, chỉ được phòng thủ bởi 1 Tiểu
Đoàn 92 BĐQ/BP, bị lực lượng CS, có khi lên đến cấp trung đoàn luân
phiên tấn công vây hãm, pháo kích suốt ngày đêm. Mặc dù nhiều tháng
không được tiếp tế, tản thương, nhưng TĐ 92/ BĐQ đã anh dũng chiến đấu
ròng rã trong suốt 510 ngày (10.5.72 – 11.4.74), sự kiện này cả UBLHQS
và UBQT tại Việt Nam đều biết). Một chiến tích đặc biệt khác mà cả quân
sử Hoa Kỳ và hồi ký của Tướng Westmoreland đều có ghi nhận đầy đủ: TĐ 37
BĐQ của VNCH được tăng phái cho lực lượng quân đội Hoa Kỳ, bảo vệ tuyến
Đông Bắc Phi trường Khe Sanh, mặc dù bị một lực lượng hùng hậu của Cộng
quân tấn công và pháo kích liên tục, có những ngày không được tiếp tế,
nhưng đơn vị này đã dũng cảm tử chiến với Cộng quân ròng rã trong suốt
70 ngày đêm (21.2.68 – 08.4.68), giữ vững được phòng tuyến và bảo vệ phi
trường Khe Sanh, một cứ điểm quan trọng cho sự an toàn của cả một căn
cứ nổi tiếng của Mỹ tại Việt Nam.)
- Đặc biệt Trận Ấp Bắc, đúng là đơn vị Nam VN đã không giải quyết được
chiến trường, bởi nhiều lý do (trong đó có lỗi lầm của Mỹ), nhưng không
phải đến bây giờ, trong The Vietnam War, các nhà đạo diễn mới cố thổi
phồng sự tổn thất của Nam VN và không nói đến tổn thất của địch. Phóng
viên chiến trường Neil Sheehan, tác giả cuốn “The Bright Shining Lie”,
khi ấy đi theo cánh quân thiết giáp do Đại úy Lý Tòng Bá chỉ huy, cũng
đã viết rất nhiều điều phóng đại, không thực trong cuốn sách. Sau này,
cựu Tướng Lý Tòng Bá gặp lại anh ta tại Mỹ đã chỉ trích điều này, nên
anh ta đã viết bài “After The War Over” để gởi tặng cựu tướng Lý Tòng
Bá, như một lời xin lỗi về nhiều điều anh đã viết không đúng trong trận
Ấp Bắc. John Paul Vann, khi ấy là Trung tá cố vấn tại Sư đoàn 7BB, cũng
đã từng nhận định và có những tuyên bố sai lạc về trận Ấp Bắc và cá nhân
Đại úy Bá, sau này, năm 1972, khi làm cố vấn cho Quân đoàn II, cùng
Tướng Lý Tòng Bá tạo nên chiến thắng Kontum, ông Vann cũng đã chính thức
xin lỗi Tướng Bá về những nhận định thiếu chính xác về trận Ấp Bắc
trước kia.
Cũng đã có những nhận định là Mỹ đã dùng trận Ấp Bắc để trắc nghiệm loại
trực thăng CH-21đổ quân. Đây là lần đầu tiên có cuộc hành quân trực
thăng vận tại Việt Nam. Đã sử dụng loại trực thăng cồng kềnh, chậm chạp
kém hiệu năng mà không hề có các trực thăng võ trang (hay kế hoạch) yểm
trợ và an toàn bãi đáp. Một nhận định khác là Mỹ cố tình tạo ra một hình
ảnh thất bại của QLVNCH trong trận Ấp Bắc để có cớ đưa quân vào Nam VN.
Trong phim, khi được phỏng vấn, Tom Valley, một cựu TQLC Hoa Kỳ từng tham gia cuộc chiến Việt Nam đã buồn bã thốt lên: “Người
Mỹ rất hiếm khi chịu nhìn nhận sự dũng cảm của họ (QLVNCH). Chúng ta tỏ
ra khinh thường họ, phóng đại sự yếu kém của họ, chỉ vì muốn khoe
khoang tài năng của ta.” Lời nói này là chân thật, nhưng cũng chỉ mới đúng được một nửa.
- The Vietnam War đã cố tình đưa ra một số hình ảnh tuyên truyền quá
quen thuộc nhằm gây bất lợi cho Nam VN. Cô bé Kim Phúc bị phỏng bởi bom
Napalm ở Trảng Bàng, Tây Ninh, ngày 8.6.72, bị CSVN lợi dụng, tô vẽ cho
cả một chiến dịch tuyên truyền, sau này cô đã xin tỵ nạn tại Canada.
Trường hợp Tướng Cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan xử tử tên VC Bảy Lốp sau khi
tên này đã tàn sát rất dã man cả một gia đình từ bà già cho đến con nít.
Và khi ấy tên VC này không hề mang quân phục hay bất cứ giấy tờ gì, thì
không thể gọi hắn ta là tù binh để phải hành xử theo luật tù binh chiến
tranh được. Hắn ta được xử như một tên khủng bố nguy hiểm, ác độc.
Tướng Loan đã được một toà án Hoa Kỳ miễn truy tố, với lý do này.
Phóng viên Eddie Adams, người chụp bức hình xử bắn được giải Pulitzer
ấy, đã tìm đến gia đình Tướng Loan xin lỗi, và khi được tin Tướng Loan
mất, Eddie đã đích thân đến dự đám tang, khóc nức nở khi đọc bài điếu
văn, trong đó có đoạn: “Ông là một vị anh hùng. Cả nước Mỹ nên khóc
thương ông mới phải, tôi không muốn nhìn thấy ông ra đi như thế này,
người ta không hiểu gì về ông ấy”. (The guy was a hero, America should
be crying. I hate to see him go this way - Without people knowing
anything about him). Trên vòng hoa phúng điếu của Eddie Adams, có đính một danh thiếp ghi rõ dòng thủ bút: "General! I'm so... sorry. Tears in my eyes" (Thưa Thiếu tướng, tôi rất ân hận. Lệ đã tràn đầy mắt tôi). Bản điếu văn của ông Eddie Adams sau đó được tuần báo Time đăng tải vào ngày 27 tháng 7 năm 1998
Bây giờ, The Vienam War lại đóng thêm những chiếc đinh oan nghiệt trên
quan tài của của một người đã chết, đã từng bị sỉ nhục và khốn đốn vì
tấm ảnh mang một nửa sự thực, chỉ vì ông là người của Nam VN!
Trong khi ấy, suốt cuốn phim 10 tập, dài đến 18 tiếng đồng hồ, người ta
không tìm thấy hình ảnh của CSBV pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy
ngày 9.3.74, làm chết 32 và gây thương tích cho 55 em học sinh. Người ta
cũng không hề thấy cảnh trên 2.000 đồng bào, rời bỏ làng mạc bị CS
chiếm, gồng gánh chạy về phía tự do, bị CS pháo kích tàn sát, nằm chết
la liệt trên đoạn đường dài 9 km (QL 1 thuộc tỉnh Quảng Trị) được báo
chí đặt tên là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Một hình ảnh rất đặc biệt mà đến nay
nhiều báo chí tại Hoa Kỳ vẫn còn nhắc đến, một bé gái 4 tháng tuổi ôm
bú vú người mẹ chết từ mấy ngày trước, đã được một binh sĩ TQLC/ VNCH
cứu, mang về giao cho một viện mồ côi. Sau đó, cháu bé được một trung sĩ
Mỹ nhận làm con nuôi, đưa sang Mỹ vào cuối năm 1972, và sau này trở
thành một sĩ quan cao cấp trong Quân đội Hoa kỳ: Đại Tá Kimberly M.
Mitchell! Người Mỹ đã ca ngợi cô đại tá Hải quân gốc Việt này, nhưng
trong The Vietnam War không hề nhắc tới Đại Lộ Kinh Hoàng!
Khi The Vietnam War được thực hiện và trình chiếu tại Hoa Kỳ, thì không
phải chỉ có Thủ tướng hay Chủ tịch nước mà ngay cả Tổng Bí thư Đảng CS
Nguyễn Phú Trọng đã được chính phủ Mỹ tiếp đón tại Tòa Bạch ốc, Việt Nam
được Mỹ “dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí”, “bình thường hóa toàn
diện” rồi trở thành “đối tác chiến lược” của Hoa Kỳ. Trong khi đó tại
Việt Nam, Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, nơi chôn cất hơn 16.000 binh sĩ
Nam Việt Nam tử trận vẫn tiếp tục bị tàn phá, hoang phế, ngăn cấm thân
nhân đến sửa sang, thăm viếng, và những thương binh VNCH vẫn tiếp tục bị
CS lên án, kỳ thị, phân biệt đối xử.
The Vietnam War, với sự thiên lệch, giả dối chỉ khoét sâu thêm vết
thương chưa lành trên thân phận của một đất nước từng tan nát bởi chiến
tranh và đặc biệt của những người lính bất hạnh Nam VN, vốn là những
ngươi bạn đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc chiến ấy!
Phạm Tín An Ninh - một người lính VNCH
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire