mercredi 22 février 2023

Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi - Lê Hữu

Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi 

Tiếng nước tôi 
bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Phạm Duy
 

 
Một người bạn , qua Mỹ năm 1975 , kể với tôi rằng , thành phố gia đình anh định cư trong năm đầu có rất ít người Á Châu . Mỗi lần thoáng trông thấy một cái « đầu đen » nào là anh ta chạy ngay đến để xem thử có phải là người Việt không . Một hôm , trên đường phố , bất chợt anh ta nghe một tiếng nói quen thuộc cất lên . Tiếng Việt Nam . « Một cái đầu đen » , anh ta la lên , chạy bay đến trước mặt người đàn ông vừa thốt ra thứ tiếng ấy , nắm chặt hai vai , lắc lắc : « Việt Nam à ? Tôi cũng Việt Nam đây ! » ( Anh ta không nói « tôi cũng là người Việt Nam đây ! » ) . Người đàn ông cũng tỏ ra vui sướng không kém . Hai người quấn lấy nhau , tíu ta tíu tít như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại và cùng tuôn ra một tràng tiếng Việt , mặc cho những người bản xứ đi qua đi lại nhìn chằm chằm hai người , ngạc nhiên vì một thứ ngôn ngữ « lạ tai » . Nỗi khát khao bị dồn nén lâu ngày , vỡ ra , ùa ra . Anh bạn tôi không cần biết người đàn ông nói tiếng Việt kia là ai , ở đâu ra , vì sao lại có mặt nơi đây ( ? ) . Không cần biết , chỉ cần ... nói tiếng Việt . Thế là đủ .
Anh bạn tôi thèm được nghe , thèm được nói thứ ngôn ngữ ấy , cái mà anh ta thiếu thốn , khao khát đã lâu . Anh ta đi tìm chút « quê hương trong tiếng nói » . Cái cảm xúc ấy chỉ đến với anh ta một , hai lần sau đó , và không bao giờ trở lại nữa . Nơi anh ta sống bây giờ có khá đông người Việt , có khá nhiều « đầu đen » . « Người Việt “ phức tạp ” quá ! » anh ta nói , nhún vai .
Đấy là chuyện của anh bạn tôi . Chuyện của tôi thì có hơi khác một chút . Năm đầu đến Mỹ , tôi có cái vui gặp lại những người bạn cũ . Một ông bạn , sau ít câu thăm hỏi chuyện gia đình , hỏi tôi :
- « Con trai ông tên gì ? » .
- « Hữu Nghị » .
- « Bộ hết tên rồi hay sao mà đặt cái tên gì ghê vậy ? » .
- « Ông nói “ ghê ” là ghê làm sao ? » tôi hỏi .
- « Thì “ từ Việt Cộng ” chứ còn “ làm sao ” nữa » , người bạn phang một câu xanh rờn .

Từ VC ! Không phải là lần đầu tôi nghe cái « từ » 1 này , bèn có một sự phản kháng :
- « Thứ nhất , ông muốn tôi đặt tên gì khác bây giờ ? Cả nhà tôi , mấy anh em trai đều là Lê Hữu ... gì gì đó , Phước , Lộc , Tài , Đức ... đến đời thằng con tôi thì cũng phải cho nó cái “ Hữu ... ” gì chứ ! Thứ hai , tôi đã plan cái tên ấy từ trước năm 75 , vì muốn thằng con đi về ... ngành ngoại giao . Việt Cộng đâu có phải là người “ phát minh ” ra cái chữ ấy , và cũng đâu có “ độc quyền ” cái chữ ấy . Tiếng Việt là tài sản chung của người Việt mà » .
Người bạn nín thinh , cũng không tỏ dấu hiệu nào là có « nhất trí » 1 hay không .
- « Hữu Nghị » , cái tên ấy , hai chữ ấy ( và những chữ khác nữa ) tự nó không có lỗi gì cả . Vậy mà tội nghiệp , nó đã bị ghét bỏ một cách oan uổng , chỉ vì ... - « ghét ai ghét cả tông chi họ hàng » . Tâm lý này khá phổ biến và có thể hiểu được . Ghét người nào là ghét cả cái nhà cái xe , cái chăn cái chiếu , con chó con mèo ... của người ấy . Nhiều người cảm thấy « ghét » chữ này chỉ vì thường đọc/nghe trên « báo , đài » 1 nào là « Tình hữu nghịthắm thiết môi hở răng lạnh » , nào là « Chúc cho tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước đời đời bền vững , mãi mãi xanh tươi » ... vân vân và vân vân . Nghe mà dễ ... ghét .

1 . Tiếng Việt trong nước
Ông bạn tôi ( và khá nhiều người như thế ) chỉ suy nghĩ đơn giản , hoặc chỉ lập lại những gì ông ta nghe người khác nói , thành thử nhiều khi nói mà ... không biết mình nói cái gì .
Sau này , mỗi khi bị « truy chụp » 1 là dùng « từ Việt Cộng » , tôi tìm được cách giải thích khác , gọn hơn : « Ông thử lật tự điển tiếng Việt trước năm 75 của miền Nam ra xem , nếu có chữ này thì ông không thể gọi là “ từ VC ” được » .
Tuy nhiên , lời giải thích ấy không phải lúc nào cũng « có sức thuyết phục » 1 , lắm người không cần biết chữ ấy có hay không có trong tự điển « phe ta » , hễ tiếng nào « đối phương » sính dùng ( nhất là dùng không đúng , nghe chướng tai , hoặc có vẻ « đao to búa lớn » ) thảy đều là ... « từ VC » . Những đối tượng ấy kể cũng hơi ... khó nói chuyện ( ngày trước gọi là « không có tinh thần đối thoại » ) .
Tội nghiệp cho những con chữ ấy , nằm yên ổn trong những trang sách tự điển từ bao nhiêu năm , nay bỗng nhiên bị nắm đầu lôi cổ ra tố khổ một cách oan uổng , như là những kẻ ... nằm vùng . Vai trò của chữ nghĩa xưa nay vốn độc lập , không nghiêng bên này ngả bên kia , vậy mà nay lại bị gọi lên « làm việc » 1 , tra vặn : « Anh theo bên nào ? » .
Những từ ngữ Hán-Việt như « hữu nghị » , « khẩn trương » , « tranh thủ » , « động viên » ... không mới mẻ , lạ lùng gì với người dân miền Nam trước năm 1975 . Nếu có khác là khác về cách diễn nghĩa và cách sử dụng . Ở miền Nam ngày trước ta vẫn nghe : « Thủ Tướng chính phủ vừa ký quyết định ban hành tình trạng khẩn trương trên toàn lãnh thổ ... » , hoặc « Tranh thủ nhân tâm ( hay tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới’ / “ tranh thủ một nền hoà bình công chính ” ) là một trong những mục tiêu hàng đầu của công tác đấu tranh chính trị » , hoặc « Phái đoàn đến thăm viếng uỷ lạo và động viên tinh thần binh sĩ » .
« Nhân dân cách mạng Việt Nam vùng đứng lên cùng thế giới
Vai chen vai bên nhau mưu cuộc
giải phóng giống nòi ... » .
Những câu hát ấy ở trong bài « Nhân dân cách mạng Việt Nam » , nhạc sĩ Hùng Lân sáng tác ở trong Nam , cho thấy những từ ngữ « nhân dân » , « giải phóng » ... không phải là « độc quyền » của người Việt ngoài Bắc .
Nói đi thì cũng nói lại , hai chữ « đồng bào » không phải là « độc quyền » của người Việt trong Nam . « Tôi nói đồng bào nghe rõ không ? » người Việt ngoài Bắc từng nghe câu ấy cách nay hơn 60 năm . Vì sao người ta không chịu xài hai tiếng « thân thương » 1 đầy ... « tình ruột thịt nghĩa đồng bào » ấy nữa lại là ... chuyện khác .
Dẫn ra các ví dụ trên để thấy rằng tiếng Việt là của người Việt , không có Bắc Trung Nam chi cả , và chỉ vì duyên cớ nào đó mà đem lòng oán ghét những « từ » này « từ » nọ thì kể cũng bất công và tội tình cho chữ nghĩa . Hãy trả ngôn ngữ về vị trí độc lập như nó đã từng .
Trong phạm vi bài này , để cho dễ gọi ( và để không phải lặp lại nhiều lần « trước/sau năm 1975 » ) , xin được tạm dùng những « cụm từ » 1 sau :
- « Tiếng Việt trong nước » : tiếng Việt được sử dụng trong cả nước hiện nay .
- « Tiếng Việt ngoài nước » : tiếng Việt được người Việt định cư ở nước ngoài ( trước và sau năm1975 ) sử dụng .
- « Tiếng Việt cũ » : cách nói hoặc từ ngữ được sử dụng ở miền Nam trước năm 1975 .
- « Tiếng Việt mới » : cách nói hoặc từ ngữ thay cho « tiếng Việt cũ » , được sử dụng ở trong nước hiện nay .
- « Miền Nam thuở trước » : miền Nam Việt Nam trước năm 1975 .
Những cách gọi này có tính cách tương đối , giai đoạn ( do những biến động của lịch sử ) , và chỉ sử dụng trong phạm vi bài này .
Từ đây trở đi , trong bài sẽ không có những chữ nghĩa như « từ VC » , « tiếng Sài Gòn » ... hoặc những phê phán kiểu « xưởng đẻ » , « chiến sĩ gái » , « Công ty chất đốt thanh niên » , « Cửa hàng thịt tươi sống phụ nữ » ... ngụ ý cười nhạo sự quê mùa của người sử dụng ngôn ngữ . Quê mùa không phải là cái tội , chỉ là sự thua thiệt do không có may mắn được đến trường đến lớp để « tiếp thu » 1 những kiểu cách văn minh lịch sự . Theo đà tiến hoá , chắc chắn là những cách nói ấy sẽ không tồn tại . Ông cha ta ngày xưa ít được học hành đến nơi đến chốn , hầu hết đều đi từ « chân quê » đến văn minh thành thị . Có người Việt nào lò dò đặt chân đến nước Mỹ lần đầu mà không ... ngáo ngáo , chỉ khác là không bị người bản xứ cười nhạo ( và chỉ ít lâu sau đó là bắt đầu có sự phân biệt kẻ đến trước , người đến sau , trong lúc đều cùng một thân phận tha hương , ăn nhờ ở đậu , không lấy gì làm vẻ vang ) .
Ngôn ngữ là tài sản chung của dân tộc , chắc không ai phủ nhận điều này . Ngôn ngữ là sản phẩm của con người , chứ không ... làm nên con người . Tiếng Việt cũng không ra khỏi lẽ ấy . Tiếng Việt dùng chung cho cả nước . « Người phát minh » ra tiếng Việt không hề có ý định cấp giấy phép cho « bên » nào đặc quyền sử dụng ; vì vậy , thiết tưởng ta cũng không nên làm cho tiếng Việt – ngôn ngữ của nước ta – trở nên « phức tạp » 1 .
Nếu ta có thể « nhất trí » được với nhau , tiếng Việt là những « tiếng » được ghi lại trong các bộ tự điển tiếng Việt của cả miền Bắc lẫn miền Nam thuở trước ( tất nhiên những bộ tự điển này luôn cần được bổ sung ) thì không có chữ nào , tiếng nào là độc quyền của « bên » nào . Bên nào xài cũng được , miễn là chịu khó xài cho đúng .
1/1 - Chữ và nghĩa
Ngôn ngữ tự nó không có lỗi gì cả . Hoặc nếu có , chỉ là ở nơi người sử dụng chúng . Thế nhưng , như thế nào gọi là « lỗi » ? Có thể kể ra một ít ví dụ về cách dùng từ ngữ và những cách nói cần được điều chỉnh sao cho hợp lý .
- Biểu diễn : Thay vì nói « Ca sĩ LT đã biểu diễn những ca khúc gắn liền với tên tuổi chị » , nói « Ca sĩ LT đã trình diễn những ca khúc gắn liền với tên tuổi chị » .
Ta không nói biểu diễn một bài hát , nhất là khi ca sĩ đứng yên một chỗ mà hát , không múa may nhảy nhót .
- Chúc sức khoẻ : Thay vì nói « Chúc sức khoẻ ! » hoặc « Chúc sức khoẻ anh chị ! » , nói « Chúc khoẻ ! » hoặc « Chúc anh chị khoẻ ! » hoặc « Chúc anh chị nhiều sức khoẻ ! » .
Nói « Chúc sức khoẻ ! » là không đủ ý ( và chưa thành câu chúc ) , mà phải là « Chúc sức khoẻ ... ( như thế nào ? ) » , chẳng hạn « Chúc sức khoẻ tốt / dồi dào ! » Hoặc , có thể nói « Chúc khoẻ ! » , « Chúc khoẻ nhé ! » ( tương tự « Chúc vui ! » , « Chúc thọ ! » , « Chúc may mắn ! » ... ) .
- Chuyên môn : Thay vì nói « Cô Nga là giáo viên phụ trách chuyên môn » , nói « Cô Nga là giáo viên phụ trách về biên soạn tài liệu giáo khoa » ( hoặc « ... về hướng dẫn sư phạm » , hoặc « ... về sinh hoạt học đường » , hoặc « ... về sổ sách kế toán » ) .
Nói « phụ trách chuyên môn » là không đủ ý , vì có cả trăm thứ « chuyên môn » , người nghe không rõ là « chuyên môn » về ... cái gì ( ? ) .
- Quá trình : Thay vì nói « Xin nói sơ qua về quá trình thực hiện một bộ phim » , nói « Xin nói sơ qua về tiến trình thực hiện một bộ phim » .
Nói « quá trình » là nói về trình tự của một diễn tiến đã kết thúc . Ví dụ : « Đơn xin việc cần ghi rõ quá trình học vấn » , hoặc : « Sau mười năm , nhìn lại quá trình hoạt động của trường » .
- Tản mạn : Thay vì nói « Tản mạn về tiếng Việt » , nói « Chuyện trò tản mạn về tiếng Việt » , hoặc « Mạn đàm về tiếng Việt » .
Nói « tản mạn về ... » là không đúng nghĩa . Tản mạn ( tính từ ) chỉ có nghĩa tương tự « lan man » , « rải rác » , « tản mác » ... , chứ không có nghĩa là « mạn đàm » , « phiếm luận » , « trò chuyện » ( động từ ) ...
- Trao đổi : Thay vì nói « Sau khi trao đổi , chúng tôi hiểu nhau hơn » , nói « Sau khi trao đổi ý kiến , chúng tôi hiểu nhau hơn » .
Nói « trao đổi » là không đủ ý , mà cần nói « trao đổi » ... cái gì ( ? ) , ví dụ : « trao đổi ý kiến / kinh nghiệm / quan niệm / hàng hoá / tù binh » ...
- Trình độ văn hoá : Thay vì nói « Trình độ văn hoá : lớp 12 » , nói « Trình độ học vấn : lớp 12 » .
Muốn hỏi về quá trình học vấn hay bằng cấp của một người , câu hỏi là : « Trình độ học vấn ? » .
- Tư liệu : Thay vì nói « Có thể tham khảo thêm các tư liệu về đề tài này ở các thư viện » , nói « Có thể tham khảo thêm các tài liệu về đề tài này ở các thư viện » .
« Tư liệu » là tài liệu riêng thuộc quyền sở hữu của cá nhân , gia đình , tổ chức ... không phổ biến đại chúng .
Những từ ngữ và những cách nói trên khá thông dụng ở trong nước và cả ở ngoài nước . Ngoài ra , có ít từ ngữ « mới » mà ý nghĩa và cách dùng chưa thống nhất , rõ ràng . « Dân oan » , chẳng hạn . Không rõ là cái « từ » này ở đâu ra , trong hay ngoài nước ? Các « báo , đài » 1 ở ngoài nước có vẻ sính dùng « từ » này . Một dòng chữ đọc được bên dưới tấm ảnh , « Dân oan tập trung khiếu kiện trước nhà thờ Đức Bà » . Trong ảnh là đám đông tụ tập thành những nhóm dăm ba người , kẻ đứng người ngồi , chuyện trò bàn bạc chi đó . Nhiều người ăn mặc bảnh bao , mặt mũi tươi rói . « Dân oan » có khi được dùng thay cho « người dân » , có khi thay cho ... « một người dân » , chẳng hạn « Lá thư kêu cứu của một dân oan » , hay « Một dân oan tỉnh Tiền Giang cho biết ... » . Ngày trước ta có những « dân chúng » , « dân lành » , « dân quê » , « dân nghèo » , « dân đen » ... nay lại có thêm tầng lớp mới là « dân oan » ( không chừng mai đây lại có thêm « dân ức » , « dân oán » , « dân khổ » , « dân đói » ... ) . Đến ngày nào « tuyệt đại bộ phận » 1 nhân dân được gọi là « dân oan » cả thì nhà cầm quyền cũng « mệt » đấy chứ không phải chơi .
1/2 - Tiếng Hán-Việt và tiếng « nửa Hán-Việt »
Không phải từ ngữ Hán-Việt nào cũng cần và cũng có thể thay được bằng từ ngữ « thuần Việt » . Khá nhiều tiếng Hán-Việt khó mà tìm được tiếng thuần Việt nào tốt hơn hoặc tương đương để thay thế .
Một ít từ ngữ Hán-Việt thường được sử dụng trong nước có thể thay được bằng thuần Việt và ... hay không kém , chẳng hạn : « đại đa số » hoặc « đại bộ phận » có thể thay bằng « phần lớn » , « phần đông » ; « tuyệt đại đa số » hoặc « tuyệt đại bộ phận » có thể thay bằng « hầu hết » ; « giáo trình » , « giáo án » có thể thay bằng « bài giảng » ; « tham quan » có thể thay bằng « thăm » , « thăm viếng » ; « thường niên » có thể thay bằng « hàng năm » ; « tiếp thu » có thể thay bằng « hiểu » , « am hiểu » , « học hỏi » ; « tranh thủ » có thể thay bằng « cố gắng » , « cố thu xếp » ; « khẩn trương » có thể thay bằng « mau mắn » , « lẹ làng » hoặc « căng thẳng » ( tuỳ nghĩa trong câu ) .
Trong khi đó , một số từ ngữ Hán-Việt được trong nước đổi sang thuần Việt khá tốt như : « cả nước » thay cho « toàn quốc » ; « nhà nước » thay cho « quốc gia » ; « trong nước » thay cho « quốc nội » ; « ngoài nước » thay cho « Hải Ngoại » ; « nước ngoài » thay cho « ngoại quốc » ; « chữ cái » thay cho « mẫu tự » ; « quý » thay cho « tam cá nguyệt » ( miền Nam thuở trước có chữ này nhưng ít dùng ) ; « tàu sân bay » thay cho « hàng không mẫu hạm » ; « Lầu Năm Góc » thay cho « Ngũ Giác Đài » ; « Hội Chữ Thập Đỏ » thay cho « Hội Hồng Thập Tự » .
Các ví dụ trên cũng cho thấy một điều hơi lạ , người Việt trong nước , một mặt có xu hướng thuần-Việt-hoá các từ ngữ Hán-Việt , một mặt lại sính dùng các từ ngữ này . Có vẻ như đối với những gì « trân quý » 1 hoặc muốn « phô trương thanh thế » thì họ chuộng sử dụng tiếng Hán-Việt , hoặc giữ nguyên tên Hán-Việt chứ không muốn đổi sang tiếng thuần Việt . Ví dụ : siêu đẳng , siêu thị , siêu tốc , siêu xa lộ , siêu khuyến mãi , siêu tiết kiệm , thậm chí siêu giảm giá , siêu rẻ , siêu sao , siêu mẫu , siêu quậy , siêu hot , siêu mỏng , siêu nhỏ , siêu khủng ( không rõ là « khủng » gì , « khủng khiếp » , « khủng long » hay « khủng bố » ? ! ) và cả siêu xe nữa ( chẳng hạn : « Siêu xe Ferrari 599 GTB dạo quanh Hồ Gươm » ) . Về tên riêng , các tên gọi như Thiên An Môn , Hữu Nghị Quan , Vạn Lý Trường Thành ... vẫn được giữ nguyên , trong lúc Toà Bạch Ốc ( hay Bạch Cung ) , Ngũ Giác Đài ... thì lại đổi thành Nhà Trắng , Lầu Năm Góc .
Tiếng Hán-Việt , dù muốn dù không , trở thành một « bộ phận không thể tách rời » 1 trong ngôn ngữ của người Việt . Nhiều từ ngữ Hán-Việt được sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày tạo cảm giác gần gũi , thiết thân không kém gì tiếng thuần Việt . Hơn nữa , sử dụng tiếng Hán-Việt dẫu sao vẫn hơn là vay mượn những tiếng nước ngoài , vì dễ nghe hơn , dễ hiểu hơn , và ít ra cũng còn được ... một nửa Việt .
Bên cạnh từ ngữ Hán-Việt , một số từ ngữ « nửa Hán-Việt » ( tiếng Hán-Việt và tiếng thuần Việt sánh đôi nhau ) cũng được sử dụng nhiều trong nước , như : người phát ngôn , nhà văn hoá , viện chăn nuôi , in ấn ( thay vì « ấn loát » ) , tranh cãi ( thay vì « tranh luận » , « tranh biện » ) , truy tìm ( thay vì « truy tầm » ) , truy đuổi ( thay vì « truy nã » ) , truy quét , truy lùng ( thay vì « truy kích » ) , truy hỏi , truy vặn ( thay vì « truy vấn » ) , vụ việc ( thay vì « sự vụ » ) , di dời ( thay vì « di động » ) , tu sửa ( thay vì « tu bổ » ) ...
Một « đặc trưng » 1 khác của người Việt trong nước là sính « nói chữ » , thích dùng những « cụm từ » văn vẻ , quanh co hoặc bóng gió ( thường là để tránh « đi thẳng vào vấn đề » hoặc để làm giảm nhẹ cái xấu ) , như : có khả năng ( có thể ) ; tạo điều kiện ( tìm cách ; thu xếp ) ; kém văn hoá ( ít học ) ; bệnh thành tích ( làm láo , báo cáo hay ) ; quyết định thôi giữ chức ( quyết định từ chức/cách chức ) ; tình hình diễn biến phức tạp ( tình hình xấu đi ) ; giao lưu tình cảm ( làm quen , kết bạn tâm tình ) ; quà biếu trên mức tình cảm ( hối lộ ) ; ùn tắc giao thông ( kẹt xe ) ; trẻ em chưa ngoan ( trẻ em hư hỏng ) ; học sinh ngồi nhầm lớp ( học sinh kém trình độ , cần cho xuống lớp dưới ) ; điều kiện kinh tế gia đình rất hạn chế ( gia đình nghèo khó , mức sống chật vật ) ...
1/3 - Tiếng Việt « cũ » và « mới »
Bên dưới là một ít từ ngữ phổ biến ở trong nước , thay cho từ ngữ hoặc cách nói tương đương ( ghi trong ngoặc đơn ) của người Việt ở miền Nam thuở trước . ( Các từ ngữ này xếp theo thứ tự vần abc ) .
Ban chấp hành ( thay cho « ban điều hành » ) , bản chất ( thay cho « bản tính » ) , biểu diễn ( thay cho « trình diễn » ) , bức xúc ( thay cho « ấm ức » ; « bứt rứt » ; « bực tức » ; « nhức nhối » ) .
Ca từ ( thay cho « lời ca » ; « câu hát » ) , chấp hành ( thay cho « thi hành » ) , chất lượng ( thay cho « phẩm chất » ) ,chủ trì ( thay cho « chủ toạ » ) , chuyên nghiệp ( thay cho « nhà nghề » ) , có sức/tính thuyết phục ( thay cho « thuyết phục được » ) , cơ bản ( thay cho « căn bản » ) , công nhân viên ( thay cho « công chức » ) , cụm từ ( thay cho « nhóm chữ » ) , cực đoan ( thay cho « quá khích » ) , cường điệu ( thay cho « phóng đại ) .
Di dời ( thay cho « di chuyển » ) , dị ứng ( thay cho « phản ứng » ; « khó chịu » ) , diễn viên điện ảnh ( thay cho « tài tử màn bạc » ) , diễu hành ( thay cho « diễn hành » ) .
Đánh giá cao/thấp ( thay cho « xem là có giá trị/kém giá trị » ) , đặc trưng ( thay cho « đặc điểm » ) , đăng ký ( thay cho « ghi danh » ; « ghi tên » ) , đạt yêu cầu ( thay cho « đáp ứng yêu cầu » ) , định kiến ( thay cho « thành kiến » ) , đội ngũ ( thay cho « hàng ngũ » ) , đột xuất ( thay cho « bất ngờ » ; « ngoài dự kiến » ) , đứng lớp ( thay cho « dạy lớp » ; « phụ trách lớp » ) .
Gần gụi ( thay cho « gần gũi » ) , giao tiếp ( thay cho « giao tế » ; « xã giao » ) , giáo án ( thay cho « giáo trình » ; « bài giảng » ) .
Hải quan ( thay cho « quan thuế » ) , hành xử ( thay cho « xử sự » ) , hiện đại ( thay cho « tối tân » ) , hộ chiếu ( thay cho « sổ thông hành » ) , hộ khẩu ( thay cho « tờ khai gia đình » ) , hoành tráng ( thay cho « vĩ đại » ) , hội nhập ( thay cho « hoà nhập » ) , hư cấu ( thay cho « tưởng tượng » ) .
Khẳng định ( thay cho « xác định » ) , khâu ( thay cho « bước » ; « phần hành » ; « giai đoạn » ) , kiểm tra ( thay cho « kiểm soát » ) .
Liên hệ ( thay cho « liên lạc » , « tiếp xúc » ) , linh hoạt ( thay cho « linh động » ) .
Năng nổ ( thay cho « năng động » ) , nghiêm túc ( thay cho « nghiêm chỉnh » ; « nghiêm trang » ; « đứng đắn » ) ,nghiệp dư ( thay cho « tài tử » ) , ngữ pháp ( thay cho « văn phạm » ) , nhắc nhớ ( thay cho « nhắc nhở » ) , nhất trí ( thay cho « đồng ý » ) .
Phản cảm ( thay cho « phản tác dụng » ) , phản hồi ( thay cho « hồi đáp » ) , phát hiện ( thay cho « phát giác » ) ,phức tạp ( thay cho « rắc rối » ) , phương án ( thay cho « kế hoạch » ) .
Quá trình ( thay cho « tiến trình » ) , quảng trường ( thay cho « công trường » ) , quân hàm ( thay cho « cấp bậc » ) .
Sâu sắc ( thay cho « sâu xa » ) , sự cố ( thay cho « trục trặc » ; trở ngại » ) .
Tâm đắc ( thay cho « ưng ý » ; « đúng ý » ) , tản mạn ( thay cho « mạn đàm » ) , tập trung ( thay cho « tập họp » ) ,tham gia ( thay cho « tham dự » ) , tham quan ( thay cho « thăm » ; « thăm viếng » ) , thành danh ( thay cho « tên tuổi » ) , thân thương ( thay cho « thân yêu » ; « thân mến » ) , thông tin ( thay cho « tin tức » ) , thông tin thương mại ( thay cho « quảng cáo » ) , thống nhất ( thay cho « đồng nhất » ) , thu nhập ( thay cho « lợi tức » ) , thuật ngữ ( thay cho « danh từ kỹ thuật » ) , tiếp thu ( thay cho « tiếp nhận » ) , tiết học ( thay cho « giờ học » ) , tính từ ( thay cho « tĩnh từ » ) , tình huống ( thay cho « tình thế » ; « tình cảnh » ; « hoàn cảnh » ) , toàn bộ ( thay cho « tất cả » ) , trân quý ( thay cho « quý trọng » ; « yêu quý » ) , tư liệu ( thay cho « tài liệu » ) , tư vấn ( thay cho « cố vấn » ) , từ ( thay cho « chữ » ; « từ ngữ » ) .
Vận động viên ( thay cho « lực sĩ » ) , xuất khẩu ( thay cho « xuất cảng » ) , xử lý ( thay cho « giải quyết » ) ...
Những chữ in đậm ( bold ) ở đoạn trên là các từ ngữ được người Việt ở Hải Ngoại sử dụng nhiều trong sinh hoạt thường ngày , kể cả trong giới truyền thông , văn học ( viết văn , viết báo , truyền thanh , truyền hình ... ) và các trường dạy tiếng Việt , khiến dần dà người ta không còn phân biệt được đâu là « tiếng Việt cũ » , đâu là « tiếng Việt mới » nữa .
Từ đó , xảy ra chuyện khôi hài , một bài báo công kích việc sử dụng « tiếng Việt mới » ở trong nước , thế nhưng trong bài tác giả lại sử dụng khá nhiều từ ngữ « mới » ấy , đại khái : « Tôi rất « tâm đắc » với tác giả « bài viết » ấy . Nội dung rất « sâu sắc » và « có sức thuyết phục » . Mỗi lần đọc hay nghe những « từ » ấy tôi rất « dị ứng » . Là người Việt phải biết « trân quý » tiếng Việt « thân thương » của « ta » ... » Bài báo cho thấy người viết bị nhiễm « virus « tiếng Việt mới » » khá nặng , cần được điều trị .
Mỗi người có thể có những cách « đánh giá » 1 khác nhau về các « từ » của « tiếng Việt mới » . Cá nhân tôi , vẫn sử dụng các từ ngữ sau :
Dị ứng : Không dễ tìm được từ ngữ nào tương đương trong « tiếng Việt cũ » ( không hẳn là « phản ứng » hay « khó chịu » ) . Nói : « Tôi rất dị ứng với cái từ ấy » , nghe giống như là ăn phải món gì đó , hoặc uống nhằm thứ thuốc men gì đó , da dẻ phát ngứa , nổi mề đay , gãi sồn sột ...
Bản chất : Nghe « mạnh » hơn là « bản tính » . Nói : « Bản chất của hắn ta là vậy » , có nghĩa là « hắn ta » ... hết thuốc chữa . Cái gì đã thuộc về « bản chất » rồi là đã nằm trong máu trong thịt , không cách chi « cải tạo » được , chỉ có nước ... thay máu .
Tâm đắc : Nghe ... tâm đắc hơn là « ưng ý » , « hợp ý » .
Nhạy cảm : Nghe ... nhạy cảm hơn là « dễ đụng chạm » , « dễ gây xích mích » , « dễ xa nhau » .
Tính từ : Từ ngữ chỉ về tính cách , tính chất của người , vật , sự việc ( đúng hơn « tĩnh từ » , nghĩa tương phản với « động từ » ) .
Vận động viên : Đúng hơn « lực sĩ » . Nhiều vận động viên không phải là « lực sĩ » .
Các từ ngữ mới như « đối tác » , « dữ kiện » , « dữ liệu » , « phản hồi » , « truy cập » , « hiển thị » ... không thấy có trong « tiếng Việt cũ » cũng thường được tôi sử dụng . Những từ ngữ « quan ngại » , « phản ánh » , « hình thành » , « đảm bảo » ... không phải là « tiếng Việt mới » như nhiều người tưởng mà từng được sử dụng ở miền Nam thuở trước .
Phần này không đề cập đến những tiếng lóng hoặc ngôn ngữ đường phố ( street language ) mà « tiếng Việt cũ » , « tiếng Việt mới » gì cũng đều có .
1/4 - Nói sai , hiểu đúng
« Lát nữa đây tôi sẽ trao đổi với anh » , nghe người bạn nói vậy , ta tự động hiểu là anh ta sẽ trao đổi ý kiến với mình ( chứ không phải trao đổi ... hình ảnh tài liệu , hay thứ gì khác ) .
« Anh có thể vào trang web ấy để tham khảo ít tư liệu » , nghe người bạn nói thế , ta hiểu là cả nước đều có thể tham khảo thoải mái các tài liệu ấy ( chứ chẳng phải riêng tư gì ) .
Nếu ta « nhất trí » được với nhau ngôn ngữ là « công cụ truyền đạt ý tưởng và giao tiếp giữa con người » thì hai câu nói trên xem như « đạt yêu cầu » 1 . Người nói muốn nói cách nào cũng được , chỉ cần người nghe hiểu được và hiểu đúng là ngôn ngữ đã hoàn thành tốt đẹp vai trò của mình .
« Tư liệu » hay « tài liệu » thì cũng chỉ là cách gọi , là cái tên con người đặt để ra . Giả sử « nhà phát minh » chữ nghĩa chỉ tay vào cái bàn và nói « đây là cái ghế » thì vật dụng ấy sẽ có tên là « ghế » .
Giả sử ta gọi « chó » là « mèo » và « mèo » là « chó » thì khi nói « chó » , người nghe sẽ hiểu đấy là con vật nuôi ở trong nhà , kêu « meo meo » và giỏi bắt chuột ; ngược lại , « mèo » là con vật nuôi để giữ nhà , sủa « gâu gâu » , và thường ngoắc ngoắc đuôi mừng chủ đi đâu về . Mới nghe thì có vẻ ngược ngạo , nhưng nghe riết cũng thành ... quen tai . Tên gì thì cũng chỉ là cái ... tên .
Nhiều người Việt ngoài nước vẫn phê phán hai chữ « chất lượng » của « tiếng Việt mới » , cho rằng « lượng » không thể nào là « phẩm » được , và nói « nâng cao chất lượng » là không đúng mà phải nói « nâng cao phẩm chất » . Thực ra , không phải người Việt trong nước không biết rằng chữ « lượng » ( trong từ ngữ « chất lượng » ) là chỉ mức độ lớn nhỏ , nhiều ít , cân đo đong đếm được . Cũng không phải họ không biết đến hai chữ « phẩm chất » . Từ ngữ này vẫn có trong từ điển tiếng Việt của họ , và được định nghĩa « Cái làm nên giá trị của người hay vật » ( và còn cho ví dụ : « Hàng kém phẩm chất » ) . Trong lúc « chất lượng » được định nghĩa « Cái tạo nên phẩm chất , giá trị của một con người , một sự vật , sự việc » ( Từ điển tiếng Việt , Nhiều tác giả , Viện Ngôn Ngữ Học , NXB Đà Nẵng , Trung Tâm Từ Điển Học , 2006 ) . Như vậy thì hai từ ngữ này có nghĩa tương tự , thế nhưng họ lại sính dùng « chất lượng » hơn , và giải thích rằng , nói « chất lượng » là để ... phân biệt với « số lượng » .
Nói gì thì nói , cái « từ » ấy ( và các « từ » khác nữa của « tiếng Việt mới » ) vẫn được lưu hành rộng rãi trong mọi sinh hoạt của người Việt ở Hải Ngoại . Các « báo , đài » vẫn cứ « đảm bảo chất lượng » lia chia , các xướng ngôn viên truyền thanh , truyền hình vẫn cứ « nâng cao chất lượng » đều đều , và vẫn cứ phát ngôn ra rả những « phát hiện » , « kiểm tra » , « tham gia » , « tham quan » , « biểu diễn » , « đăng ký » , « tập trung » , « chủ yếu » , « tháng Một » , « tháng Bốn » ( thay vì Tháng Giêng , Tháng Tư ) ... vân vân . « Khán thính giả nghe đài » thì cũng dễ dãi , ít có ai thắc mắc hay ý kiến này nọ , hoặc nếu có phản kháng thì cũng ... yếu ớt , vì biết có phản kháng cũng chẳng ăn thua gì . Người nghe nghe mãi , nghe riết cũng ... quen tai , và tới nay thì dù muốn dù không cũng đành chấp nhận « sống chung hoà bình » . Cũng không thể phê phán các cô xướng ngôn viên ấy được , vì các cô chỉ đọc làu làu các văn bản được ai đó soạn sẵn , và « ai đó » thì hầu như cũng chẳng bận tâm đến chuyện đúng sai , phải trái , « tiếng Việt mới » , « tiếng Việt cũ » của các « từ » ấy .
Trả lời các phản hồi của « thính giả nghe đài » về việc sử dụng nhiều từ ngữ « tiếng Việt mới » trong các chương trình phát thanh bằng Việt ngữ , người phụ trách chương trình này của một đài phát thanh nước ngoài giải thích , « Đối tượng của chương trình này “ đại đa số’ 1 là thính giả ở trong nước chứ không phải chỉ là người Việt ở nước ngoài . Chúng tôi sử dụng từ ngữ thông dụng ở trong nước để việc “ truyền thông’ đạt được hiệu quả » . « Thính giả nghe đài » chắc cũng thoả mãn cách giải thích này nên không có ý kiến gì thêm .
[ Cách gọi « thính giả nghe đài » cũng là « cụm từ » 1 của tiếng Việt trong nước . Thoạt đầu là « các bạn nghe đài » , sau đổi thành « quý bạn nghe đài » ( nghe « trân quý » hơn ) , sau lại đổi thành « quý thính giả nghe đài » hoặc « quý khán thính giả xem đài » ( lẽ ra phải là « quý khán thính giả xem và nghe đài » ) . Thế nhưng , đổi như vậy thì lại thừa ra cái đuôi « nghe đài » , « xem đài » . Những « cụm từ » này cũng được ít đài truyền thanh , truyền hình của người Việt ở Hải Ngoại vay mượn . Với cách dùng « từ » như thế , e rằng mai đây sẽ lại có thêm những « khán giả xem phim » , « khán giả xem kịch » , « độc giả đọc sách » , « độc giả đọc báo » ... vân vân ] .
Thực tế , « tiếng Việt mới » và « tiếng Việt cũ » đều có những trường hợp sử dụng từ ngữ không được chính xác . Người Việt ở miền Nam thuở trước vẫn viết hoặc nói « áo lạnh » ( thay vì « áo ấm » ) ; « gái mãi dâm » ( thay vì « gái mại dâm » ) ; « đi khám bác sĩ » ( thay vì « đi khám bệnh » , hoặc « đi gặp bác sĩ » ) ... Và người đọc hay người nghe , khi nghe « áo lạnh » , thay vì yêu cầu người nói điều chỉnh , phải ... tự điều chỉnh não bộ ( là nơi tiếp nhận ngôn ngữ ) để hiểu rằng người nói muốn nói là « áo ấm » . Việc này có thể tạo ra chút lúng túng ở lần đầu tiên vì « sự cố » 1 có hơi bất thường ; tuy nhiên , từ đó về sau thì « quá trình » tự điều chỉnh ấy sẽ trôi chảy và trở nên bình thường .
Nói sai nhưng ... hiểu đúng là được , như cách nói của người Mỹ , « That’s ok , no problem » . Về mặt truyền đạt ý tưởng , như thế gọi là « đạt yêu cầu » .

1 Từ ngữ phổ biến ở trong nước

 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire