Thay lời tựa:
“Tôi yêu lắm cái linh hồn,
Gọi là tinh thần luân lý giáo khoa thư
Vất vưởng theo bước chân người Việt Nam tị nạn
Tôi luôn tìm chỗ nương náu
Cho cái linh hồn mờ phai ấy
Trong xã hội nhiễu nhương này
Hôm qua, hôm nay, ngày mai, và nhiều ngày sau nữạ
Tôi đã bắt đầu và tiếp tục cuộc hành trình.
Vào nước Mỹ thênh than
“Tôi yêu lắm cái linh hồn,
Gọi là tinh thần luân lý giáo khoa thư
Vất vưởng theo bước chân người Việt Nam tị nạn
Tôi luôn tìm chỗ nương náu
Cho cái linh hồn mờ phai ấy
Trong xã hội nhiễu nhương này
Hôm qua, hôm nay, ngày mai, và nhiều ngày sau nữạ
Tôi đã bắt đầu và tiếp tục cuộc hành trình.
Vào nước Mỹ thênh than
Tôi đi,
Nương theo linh hồn luân lí giáo khoa thư của Việt Nam nhỏ bé
Đi mà nhớ mãi,
Tiếng đàn của một ông giáo,
Tiếng Phong Cầm của Bố Tôi.”
Nương theo linh hồn luân lí giáo khoa thư của Việt Nam nhỏ bé
Đi mà nhớ mãi,
Tiếng đàn của một ông giáo,
Tiếng Phong Cầm của Bố Tôi.”
Trần Thị Như Hoài An
Chiếc Phong Cầm Của Bố Tôi
Tác giả Dương Như Nguyện - Bích Huyền & Đan Thanh trình bày
Tên tôi là Trần Thị Như Hoài An. Ở Mĩ tôi mang tên Ann Trần. Tôi là con gái một ông giáo dạy văn chương, sinh ngữ. Bố tôi là một người tị nạn Việt Nam. Ông dạy học suốt đờị Sang Mĩ từ năm 1975, bố tôi may mắn hơn nhiều bạn hữu của ông: ông được tiếp tục nghề dạy học. Người Mĩ gọi bố tôi là Dr. Tran.
Tôi
không phải là một nhà giáọ Tôi là một chuyên viên kinh tài thị trường
chứng khoán. Tôi có tiền bạc sung túc hơn bố tôi, vì tôi không chọn nghề
dạy học, dù rằng thời thơ ấu ở Huế, tôi đã từng ôm mộng trở thành giáo
sư dạy dương cầm. Năm tôi sáu tuổi, bố tôi để tôi lên yên sau chiếc xe
đạp của ông, rồi ông gò người đạp xe đến trường Jeanne d’Arc, Huế. Ông
phó thác tôi cho Sơ Joséphinẹ Bà là người dạy tôi đặt ngón tay lên phím
trắng dương cầm lần đầu tiên. Chiếc xe đạp, thân người mảnh khảnh, cặp
kính cận, những vòng bánh xe quay trên con đường im vắng của thành phố
Huế, và những phím trắng dương cầm, tất cả trở thành những hình ảnh mờ
nhạt khi tôi mạnh dạn xách cặp da đi vào trụ sở Goldman Sachs (*) ở Nữu
Ước.
Từ
đó, tôi quên những con đường im vắng của Huế xưa cũ, quên những phím
trắng dương cầm, và quên luôn đời sống của bố mẹ tôi, nhất là của bố
tôi, một nhà giáo Việt Nam lưu vong tị nạn. Trong những đêm Nữu Ước sáng
rực ánh đèn, tôi ngồi trong văn phòng, đối diện cái máy vi tính, thoáng
nghĩ đến bố mẹ tôị Rồi vội vã kết luận: chắc là bố mẹ tôi vẫn bình an,
sau đó lại tiếp tục dán mắt vào cái máy vi tính.
*
Tôi
không biết bố mẹ tôi sống như thế nào, nói chi đến việc hiểu được sự
mất mát của bố tôi… cho đến ngày tôi từ giã Goldman Sachs để về miền Nam
sống bên cạnh bố mẹ. Tôi trở về với bố mẹ vì đã mệt mỏi với nghề nghiệp
của mình. Tôi muốn đi tìm phím trắng dương cầm của thời thơ ấụ
Và trong khi đi tìm phím trắng dương cầm cho mình, tôi bắt gặp, từ quá khứ im lìm, những mảnh đời của bố mẹ tôi…
*
Suốt
những năm ở Mĩ, bố tôi sinh sống bằng nghề dạy học. Ngày lại ngày, sáng
nào bố tôi cũng dậy từ năm giờ. Mẹ tôi dậy theọ Mẹ tôi để vào cái túi
giấy dầu một cái bánh mì chả lụa, một trái chuối, và một lon sữa đậu
nành. Đó là bữa ăn trưa của bố tôị Sáu giờ sáng bố tôi ra khỏi nhà, cầm
theo cái túi giấy dầu, và tài liệu dạy học nằm trong cái cặp da càng
ngày càng cũ. (Tính bố tôi ưa sưu tầm, lưu trữ, không thích vứt bỏ cái
gì cả. Ông khư khư giữ tất cả những gì ông đã sắm để rồi — tôi biết một
ngày kia tất cả sẽ tan biến đi, như lần di tản 1975). Mẹ tôi than với
tôi: “Cha con chán nghề dạy học rồị Ông chỉ mong về hưu để sang Cali với
bạn bè và học trò cũ.” Trong căn bếp hẹp, mẹ tôi sửa soạn túi giấy ăn
trưa cho chồng. Tôi nghĩ, chắc bố tôi chán nghề dạy học thật. Khi cầm
cặp với túi thức ăn đi ra cửa, đôi mày ông cau lạị Tôi đi làm cho
Goldman Sachs có nhiều lúc cũng chán ngán như thế. Quanh đi quẩn lại,
hai mươi năm trôi qua, tôi bàng hoàng nhận ra là mười ngón tay mình đã
phụ bạc phím dương cầm. Nên tôi đã từ bỏ tiền lương sáu con số mà “lang
thang giữa đời ối a biết đâu nguồn cộị” Tôi đi làm, bước chân vào văn
phòng với chiếc ví Chanel, với nước hoa và phấn son thơm ngát, còn bố
tôi bước chân ra cửa, trĩu nặng trên vai cái nếp sống đơn bạc của nghề
giáọ Với tôi, chiếc ví Chanel, nước hoa và son phấn trở thành niềm an
ủi, còn bố tôi lấy gì làm an ủỉ Nhìn bố tôi chậm chạp trong bếp, tôi mũi
lòng. Đời tôi đã có nhiều ngậm ngùi, từ công danh cho đến tình duyên.
Bây giờ, trong tuổi già của bố mẹ tôi, hình như tôi phải cưu mang thêm
nỗi ngậm ngùi của họ. Tôi chạy vào phòng tìm cái túi Lancôme cũ đưa cho
bố tôi để ông làm túi đựng đồ ăn trưạ Tôi nói: “Cho nó lịch sự, bền bỉ
hơn một chút, bố ạ.” Từ hôm đó, mỗi sáng bố tôi rời nhà với chiếc cặp da
cũ, thêm cái túi Lancôme đựng đồ ăn rất “ốp a” của cô con gái thay thế
cái túi giấy dầụ Ông nói với mẹ tôi: “Cái túi Lancôme chắc chắn không bị
rách vì lon sữa đậu nành như cái túi giấy dầu,” mặt ông nom nghiêm
trọng như thể đang nói chuyện tương lai nước Việt Nam. Mẹ tôi thì chê
cái túi Lancôme nom đàn bà quá. Bố tôi dễ thương ở chỗ ông lập dị một
cách vô tư lự. Thí dụ ông soi gương cắt tóc lấỵ Có lần, tóc méo một bên
không giống ai, ông vẫn tỉnh bơ, tuyên bố “Hà tiện đồng nào hay đồng
ấỵ”. Thế nhưng bố tôi lại rất hồ hởi đi mua tranh của ông họa sĩ Đinh
Cường về treo trong nhà làm cảnh.
Nếu
bố tôi không thích dạy học nữa, tại sao ông vẫn gương mẫu hơn bất cứ
một công dân gương mẫu nào của Mĩ quốc nàỵ Ông phê bình chuyện tôi bỏ
việc ở Godmam Sachs: “Nó trả con nhiều tiền thế, sao lại tự dưng xin
thôỉ” Ông hay “nhận định” các em tôi, và dâu rể có tật làm việc đi trễ
về sớm theo ngôn ngữ Bắc Kì: “Chúng mày lạ quá, tao chẳng bao giờ đi làm
trễ. Mĩ nó đúng giờ giấc lắm, đi trễ về sớm như chúng mày là bậy, bậỵ”
Em trai tôi cười trừ, nheo mắt, “Yes, Sir.” Em gái tôi thì nhỏ to: “Bố
không muốn bê bối vì bố… sợ tụi nó! Bố mặc cảm Việt Nam quá trời!”
Như
một cái đồng hồ báo thức, trong mười tám năm, cứ sáu giờ sáng là bố tôi
rời nhà với cặp da túi giấỵ Bảy giờ sáng là bố tôi đã có mặt tại
trường. Trừ khi đau ốm, ông không hề nghỉ một ngàỵ Nếu quả tình dạy học ở
Mĩ là khổ thì khả năng chịu đựng của ông thuộc hạng… siêu! Ngày nào
cũng như ngày ấy, sách cặp da túi giấy trong mười tám năm!
*
Tôi
vô tâm không hiểu tại sao bố tôi đi làm với nét mặt đăm chiêụ Đôi khi
tôi cho là bố tôi đã được voi, còn muốn đòi tiên. Cho đến một hôm…
Đêm
hôm ấy, tự nhiên tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi nhớ đến một vật sở
hữu bố tôi đã có và đã mất. Tôi nhớ đến chiếc phong cầm của bố tôị Như
tôi đã nói, bố tôi có tính quen sưu tầm, lưu trữ, ít khi phế thải một
vật sở hữu nàọ Bằng chứng là ông vẫn giữ cái cặp da đầu tiên trong công
vụ dạy học ông mua tại Sàigòn hồi cuối năm 1955 trước khi lên đường ra
miền Trung dạy học, nhất là cái bộ đồ “bốn túi” kiểu “kí giả” ông mang
theo từ 1975. Đó là cái “mốt” một thời của bố tôị Nhiều lần, lũ con phải
la lối đòi tẩy chay bố để ông khỏi lôi bộ đồ cổ lỗ sĩ ra mặc.
Giữa
đêm tối, tôi chợt hiểu rạ Tôi hiểu rồi, hiểu cái mất mát của bố tôị Cái
đau khổ mơ hồ của tôi hôm nay bắt đầu từ hình ảnh chiếc phong cầm thời
thơ ấụ CHIẾC PHONG CẦM CỦA BỐ TÔI… Khi tôi bắt đầu có trí nhớ thì bố tôi
đã có chiếc phong cầm ấỵ Bố tôi mất nó vào năm 1964, trong những ngày
Huế sôi nổi xuống đường.
Cuối
năm 1964, tôi lên sáu, thì bố tôi từ Pháp về. Ông đi du học từ hồi tôi
ba tuổị Không có bố bên cạnh, tôi sống trong không khí quây quần bên họ
ngoạị Ngày ông về nước, ông là một hình ảnh xa lạ. Ông mảnh khảnh, mặt
hơi tư lự. Tôi nhìn ông mà hơi sờ sợ. Những ngày ở Pháp về, ông không
vui, có lẽ vì thời cuộc. Con bé Hoài An ở tuổi thơ dại đó, bèn bắt đầu
một công trình nghiên cứu qui mộ Tôi quyết định nghiên cứu bố tôị Việc
đầu tiên tôi nhận xét là những câu nói của người nhà. Tỉ dụ, bà vú bảo:
“Ông Tây quá,” “Tối ngày ông nghe dĩa hát.” Những tiếng hát trong vắt,
ngôn ngữ xa lạ. Sau này lớn lên, qua Mĩ, tôi mới biết đó là dĩa hát nhạc
kịch My Fair Lady ông mua từ Luân Đôn. Thời gian sinh sống ở Nữu Ước,
tôi vẫn luôn tự hỏi biết đâu sự say mê âm nhạc và sân khấu của tôi đã
bắt đầu với tiếng ca trong vắt từ cái dĩa hát của bố tôi ngày đó.
I could have sung all night
I could have sung all night
All night
Và tiếng hát vút lên, ngân dài, cao ngất:
All night…
Trong
dãy phố Nguyễn Trường Tộ ở xứ Huế êm đềm, chỉ nhà tôi là có cái dĩa hát
quay vòng vòng. Bố tôi cầm cái cần nhẹ nhàng đặt lên dĩa hát, rồi cái
dĩa quay vòng vòng, và tiếng hát xa lạ trong vắt bay ra từ cái hộp. Tôi
nghĩ theo bà vú: “Sao mà nó Tây thế!” Ngoài cái máy hát, bà vú còn nói
bố tôi mặc “áo tơi” đi trong nhà. Tôi đi theo nhìn bố tôi, thấy bà vú
nói đúng. Bố tôi không mặc bà ba trắng có khuy cài như ông ngoại tôị Bố
tôi mặc cái áo thùng thình cột dây ngang lưng, tương tự như cái áo đầm
dài đến chân (sau này tôi mới biết đó là cái robe de chambre). Bà vú
bảo: “Tây ơi là Tây! Ông ở lỗ mặc áo tơi đi trong nhà!” Tôi cũng muốn
bắt chước bố tôi “mặc áo tơi” đi vòng vòng trong nhà như thế. Bà vú bảo:
“Hoài An ơi, dị lắm. Đừng bao giờ bắt chước ông!”
Sau
đó bố tôi còn vẽ tranh, ông hay đi vẽ với họa sĩ Hiếu Đệ. Ông này hay
xoa đầu tôi rất lâụ Tôi còn nhớ ông ta có cặp mắt kính rất dàỵ Trong
những tranh của bố tôi, có một tấm có cái thuyền treo ngược. Tôi không
hiểu tại sao cái thuyền lại treo ngược, làm sao chèo được trong những
ngày nước dâng ngập Đập Đá hoặc bão lụt ở miền Trung? Tôi hỏi mẹ tôị Mẹ
tôi cũng không hiểu bố tôi vẽ cái gì? Chỉ có bức tranh Thành Nội có rêu
xanh, tường nâu là tôi thấy giống ngoài đờị Cứ như vậy, con bé Hoài An,
lên sáu, nghếch mắt nhìn người bố xa lạ, quan sát và suy tự Rồi bố tôi
đem sách Pháp ra dạy tôi học: “C’est une chaise… C’est le chèvre de Mr.
Seguin…” Sao mà chán quá! Thêm cái màn phải dậy sớm, tắm rửa, thay áo,
uống sữa (một việc mà tôi rất ghét), rồi leo lên xe đạp cho bố tôi đèo
đến trường Jeanne d’Arc tập đàn. Tập đàn thì cũng được đi, nhưng tôi
không muốn tập theo Méthode de Rosẹ Tôi muốn đánh mò bài “Những Đồi Hoa
Sim, ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt” theo kiểu Phương
Dung, con nhạn trắng Gò Công. Sơ Joséphine mà biết được sẽ khẻ tay tôi
đau điếng. Tôi không biết thở than với ai về những cái khó chịu mà bố
tôi bắt tôi phải trải quạ
Tóm
lại sự có mặt của bố tôi làm cuộc đời tôi bị xáo trộn. Tôi không còn
được ngủ chung giường với mẹ tôị Tôi phải ngủ giường ngoài, loại giường
gỗ dành cho con nít. Tôi van vái Trời Phật cho ông đi du học thêm một
lần nữa thì đỡ quá!
Có
lần tôi nghe bố tôi đọc một đoạn văn cho mẹ tôi nghe, tôi thấy rất lạ
lùng, và kết luận chắc là bố tôi điên. Tôi kể lại với bà vú, bố tôi nói
gì về con lừa, về vũ trụ có đồ đạc lổn ngổn. Bà vú lè lưỡi, khuyên tôi
sau lớn lo lấy chồng đừng có học giỏi làm chị Và nhất là chớ có đi Tâỵ
Sẽ điên giống bố tôị
*
Ba
mươi bốn năm sau, ngồi ở Nữu Ước, nhìn ra vòm trời đầy ánh điện, tôi
đọc lại một đoạn văn của bố tôi viết ở Huế nhân dịp ông xem tranh của
họa sĩ Đinh Cường. Một vài năm trước biến cố 1975, ông đem bài bình luận
ấy quay ronéo cho sinh viên Văn Khoa Sài Gòn dịch ra tiếng Anh. Thời
thơ ấu hiện về, tôi mới nhớ ra đó là đoạn văn tôi đã nghe lóm ngày xưa
qua khung cửa phòng của bố mẹ tôi:
“Trong
vũ trụ, súc vật, đồ đạc, người ngợm lổn ngổn, những vỏ công thức cứng
ngắc, rỗng tuếch, đập bửa ra toàn chất liệu chết, ù lì, đặc sệt; những
cái đầu gỗ lọc cọc múa nhảy trên đường, những trường thành góc cạnh lì
lì chắn lối; những xe cộ, bàn ghế, cây khô tĩnh vật đắp ụ ngõ xóm; đất
rác từng đống sát mũi cửa nhà, bịt kín công lộ. Những cái cứng ngắc, lổn
ngổn, trì độn ấy làm nghệ sĩ đi một bước là đụng, là đá, là vấp chạm đủ
mọi chướng vật. Ấy là cái thế giới hình thể hiện thực bủa kín nghệ sĩ,
muốn bò-sát-hóa thân phận nghệ sĩ. Nó bảo: mày làm con lừa kéo gỗ đị Nó
hô: cúi đầu xuống, uốn đuôi lên. Thế giới hình thể hiện thực vong thân
nghệ sĩ bằng đủ kiểu phỉnh phờ. Nó chắp cánh gỗ cho nghệ sĩ bay vào thế
giới lãng mạn, trăng sao mây nước. Nó gạt nghệ sĩ vào vũ trụ ấn tượng
mù, lung linh bàng bạc. Rồi, rất biện chứng, nó đá đít những tâm hồn
nghệ sĩ đích thực… Tôi không tự hỏi Đinh Cường đã đi vào trừu tượng thế
nàỏ Cái đó chẳng quan hệ gì đến người xem tranh, dĩ nhiên. Sự hiện hữu
của trừu tượng Đinh Cường, tôi sẵn nhìn nó trong hình ảnh một bứt phá…”
Đọc
đoạn văn, tôi giật mình sợ hãị Tôi không nghĩ là bố tôi viết về tranh
Đinh Cường. Mà ông viết về chính mình. Về con mắt nhìn tranh. Ông đã
thay tôi viết về thân phận con ngườị Cái tính trí thức và nghệ sĩ trong
một môi trường tàn bạo đòi hỏi sự bứt phá. Dường như có sự tiên trị Đoạn
văn ngắn này áp dụng được vào khung cảnh của một Sài Gòn nhân mãn quay
cuồng trong kinh-tế-thị-trường-xã-hội-chủ-nghĩa ngày nay, vào ngay cả
cái thành phố Nữu Ước này trước thế kỉ hai mươi mốt. Cái khoảng cách
khác biệt giữa Cộng Sản và Tư Bản, Mĩ, Á, trong kỉ nguyên mới (New Age)
biến mất trong đoạn văn của bố tôị Cả hai bên đều có những con lừa kéo
gỗ và sự bứt phá trong của tâm hồn nghệ sĩ đối với môi trường và sức ép
chung quanh. Rồi tôi rùng mình tự hỏi, năm 1965, khi viết lên những dòng
trên, bố tôi có biết chăng đứa con gái nhỏ đầu lòng của mình, trên ba
mươi năm sau, cảm thấy nó là con lừa trong vòng quay tới tấp của xã hội
Mĩ, Goldman Sachs đã vô hiệu hóa những ngón tay của tôi, không thả cho
ngón tay tôi mềm mại về với phím trắng dương cầm. Ở tuổi gần bốn mươi,
tôi mong cầm bút để thay thế phím trắng dương cầm. Tôi ngậm ngùi hiểu ra
rằng trong căn bản bố con tôi giống nhaụ Chúng tôi, qua hai bối cảnh,
hai thời điểm khác nhau, ở tuổi trung niên đều mang tâm trạng của những
con lừa kéo gỗ.
Thế
nhưng trong những ngày tháng ở Huế năm 1965 khi bố tôi viết những dòng
trên thì bố con tôi không nói chuyện với nhaụ Bố mẹ Việt Nam thời đó
không đến gần con nít, tối tối phải đọc truyện cho con nghe như bố mẹ ở
Mĩ thời naỵ Sự tương đồng về tâm trạng con lừa, về thân phận con người
và kiếp lưu đày của tâm hồn nghệ sĩ, phải ba mươi bốn năm sau tôi mới
nhận thấỵ
Tuy
nhiên, tôi xin tâm sự với độc giả một chi tiết rất quan trọng trong
quãng đời thơ ấu của tôị Khoảng thời gian 1964-65, ở phố Nguyễn Trường
Tộ, Huế, bố con tôi có nói chuyện với nhaụ Một cuộc nói chuyện thầm lặng
qua chiếc phong cầm. Tiếng đàn phong cầm của bố tôị Công cuộc nghiên
cứu về người bố của bé Hoài An có khúc này là thú vị nhất.
Chiếc
phong cầm của bố tôị Tôi còn nhớ rõ mồn một. Nó đẹp vô cùng. Những phím
trắng nho nhỏ màu ngà, đục mà lại sáng bóng. Màu ngà còn đẹp hơn những
thẻ xâm hường điểm son của bà ngoại tôị Những phím đen nằm thẳng đều đặn
cũng sáng bóng như răng hạt huyền của người đẹp Bắc Ninh xưạ Ở giữa
những phím trắng với những phím đen là một khoảng huyền bí. Những nếp
xếp kéo đi kéo lại, co vào, giãn rạ Huyền hoặc và lôi cuốn!
Trong
công cuộc nghiên cứu về bố tôi từ ngày ông về nước, ngay buổi đầu tôi
đã chú ý đến chiếc phong cầm. Buổi chiều khi đi học ở Jeanne d’Arc về,
tôi hay bắt gặp bố tôi đứng đánh đàn bên cửa sổ trong trời mưa phùn xứ
Huế. Mặt ông chăm chú không giống ai, môi chu lại một cách rất say sưa,
vì ông phải tập trung tinh thần mà “thả hồn vào âm điệụ” Những ngón tay
nhịp nhàng bấm phím, hai bàn tay kéo ra kéo vô, cái đàn nằm trên ngực bố
tôi lắc lư theo âm điệụ Tôi thích bố tôi đánh đàn, lý do giản dị là vì
ông ham đánh đàn không bắt buộc tôi học tiếng Pháp, “C’est une chaisẹ
C’est le chèvre de Mr. Seguin,” một điệp khúc vô cùng nhàm chán.
Xin
lưu ý độc giả, bố tôi không phải là một nhạc sĩ. Tiếng đàn của ông có
lúc rè rè, có lúc êm ái mê ly, tùy theo cái hứng nghệ sĩ của bố tôị Ông
cũng không phải là ca sĩ, dù có lúc ông hát ông ổng theo tiếng đàn. Thế
nhưng tiếng đàn tiếng hát của bố tôi đã để lại trong trí tôi dấu ấn
những bản nhạc Việt đầu tiên mà tôi ưa thích mãi cho đến bây giờ.
Thuở ấy, Trịnh Công Sơn, một thanh niên ốm o, đeo kính cận là hàng xóm của chúng tôị Trịnh Công Sơn vừa làm xong bài Lời Buồn Thánh.
Cái da diết, ủ ê của Lời Buồn Thánh cần phải được diễn tả bằng tiếng
sắc-xô-phôn. Không có kèn bố tôi xài đỡ chiếc phong cầm. Tôi thuộc lòng
Lời Buồn Thánh từ đó.
Chiều Chủ Nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều
Bạn bè rời xa chăn chiếu
Ô hay mình vẫn cô liêu
Mãi
về sau, năm ba mươi hai tuổi, tôi bắt đầu để lại tóc dài thẳng đuột.
(Trước đó, tôi uốn quăn theo kiểu Donna Summers cho thiên hạ lầm tôi là
người Nam Mỹ. Tôi xin thú thực tôi cũng có tinh thần “vọng ngoại” như
vài người cùng xứ sở với tôi, thích ăn bơ hơn nước mắm). Có lần, với mái
tóc như thế, tôi mặc áo gypsy dấu mi-crô dưới tóc, gập người lại mà rên
rỉ Lời Buồn Thánh theo kiểu jazz, kiểu blue trước đám thực khách Mỹ. Họ
mải ham ăn, không ai để ý xem tôi hát cái tiếng nước non gì. Dưới ánh
đèn, trong khói thuốc của một quán ăn nhỏ ở Adams Morgan, Washington,
DC, tôi nhớ lại những buổi chiều mưa xứ Huế, bố tôi đứng trầm ngâm bên
khung cửa mà đếm tiếng mưa, cái đàn phong cầm đeo ở ngực. Tôi, vừa mới
để lại tóc dài thẳng đuột theo kiểu Việt Nam, chợt vứt cái mi-crô đi, mà
hát gào cho quá khứ, cho chiếc phong cầm của bố tôi:
Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về…
Chiều Chủ Nhật buồn, lặng nghe gió đi về…
Gió
đưa tôi về căn phố Nguyễn Trường Tộ, Huế, nơi mà Trịnh Công Sơn viết
Lời Buồn Thánh, và bố tôi đã dùng chiếc phong cầm nói lên Lời Buồn Thánh
. Hết Lời Buồn Thánh, chiếc phong cầm của bố tôi lại nỉ non điệu nhạc
Phạm Duỵ Và khi khôn lớn tôi mới biết rằng trong ký ức tôi, những âm
điệu này đi đôi với cặp mắt Sơn Tây của bố tôi, cặp mắt Sơn Tây của chất
thơ Quang Dũng.
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương người mẹ già
Chờ con lúc đêm khuya
Người con đã ra đi vì nước
*
Nhớ thương con oán thù loài giặc kia
Lúc xa nhau mong chờ ngày chiến thắng
Bóng dáng người hùng anh
Về ấm lũy tre xanh
Tôi
lẩn thẩn suy nghĩ. Làm sao chiếc phong cầm Tây phương đó, xuất thân từ
nước Ý, lại có thể đem tôi đến với núi rừng Việt Bắc, với con người
Quang Dũng, với tiếng hát hành quân xa, nếu không có tâm hồn rung cảm
của bố tôi và sự đồng điệu trong máu huyết giữa bố con tôị Những năm đó,
tôi chẳng biết gì hết, chỉ biết yêu thích cách bố tôi lắc lư, cái đàn
kéo ra kéo vào, và âm điệu da diết của tiếng đàn.
Và
đó là cách hai bố con tôi nói chuyện với nhau, qua chiếc phong cầm,
trước khi tôi biết thế nào là thân phận con người trở thành con lừa kéo
gỗ. Chao ơi, tôi thương xót làm sao tiếng phong cầm của bố tôi!Là con nhà giáo, tôi biết đọc năm lên bốn. Và ở tuổi lên sáu, tôi đã rất khoa học trong công trình nghiên cứu về bố tôị Tôi lục lọi trong cái rương cũ, tìm thấy thong tín bạ của ông hồi ông học trường Bưởi, Hà Nộị Trang đầu thông tín bạ có những dòng chữ sau đây:
Tên họ học sinh: Trần Quốc Ngữ
Quê quán: Sơn Tây
Tên cha/hoặc giám hộ: Trần Quốc Nho
Nghề nghiệp: Làm ruộng
Bố
tôi đó, một thiếu niên, con cụ Tổng Nho, tổ tiên lập thân từ đồng ruộng
làng Bún, miền Bắc, phía tây thành Thăng Long của nước Việt Nam hình
chữ S. Tổ tiên tôi từ đời Trần đã quen nghề cày ruộng lấy thóc bán nuôi
con cái đi học. Điển hình là ông nội tôi, cụ Tổng Nho, nuôi đàn con trai
ăn học, dâng gạo nuôi quân cho Việt Minh đánh Pháp để rồi trở thành nạn
nhân của cuộc cải cách ruộng đất bắt nguồn từ bên Tàu với ông lãnh tụ
quái gở Mao Trạch Đông.
Năm
1993, Goldman Sachs, Merril Lynch, Bank of America, cùng bao nhiêu cơ
quan kinh tài quốc tế khác tổ chức một cuộc du hành các nước đang phát
triển ở Á Châu để nghiên cứu vấn đề thiết lập thị trường chứng khoán
theo kiểu kinh tế thị trường. Tôi cũng xách cặp đi theọ Cuộc viễn du này
cho tôi có dịp về thăm Hà Nộị Tôi thuê xe đi về Hà Tây, cùng với hai
đồng nghiệp người Anh vì hiếu kỳ mà tình nguyện đi với tôị Tôi đi về
làng Bún, đôi mắt tròn lên, lạ lùng, bỡ ngỡ.
Tôi
đứng bên bờ đê nhìn những mẩu ruộng nho nhỏ, giữa ruộng có những ngôi
mộ nằm trong nước. Tôi nhìn con bò, gầy ơi là gầỵ Con bò Việt Nam, nó
gầy cũng như bố tôi gầy trong tấm hình chụp năm 1954. Rồi tôi nhìn cái
xe bò, cái xe bò Việt Nam cộc kệch cuối thế kỷ hai mươị.
Và
tôi nhìn hai người đàn bà đứng tát nước còn gầy ốm hơn con bò. Tôi tìm
ra ngôi mộ của cô tôi, chị ruột bố tôi, chết trẻ trong cuộc chiến tranh
Việt Pháp. Họ nằm giữa ruộng. Tôi nghĩ thịt xương tổ tiên tôi đã tan vào
đất, từ đó mọc lên những hạt gạo “xuất khẩu” của Việt Nam. Khi ăn hạt
gạo xuất khẩu, tôi có bao giờ nghĩ là đang ăn thịt xương của tổ tiên tôỉ
Tôi ngửa mặt lên trời tìm vừng mây trắng. Xa xa kia là sông Đà, núi Tản
của Nguyễn Khắc Hiếụ Đâu đây là nét “vời vợi buồn Tây Phương” của Quang
Dũng. Tôi mỏi mắt nhìn cho ra một nét quen thuộc nào đó, lắng nghe cho
thấy “tiếng hát hành quân xa” và tự hỏi: nơi chốn này có yêu tôi không,
hay đang nhìn tôi xoi móỉ.
Rồi
tôi đứng nhìn con đường hẹp đầy ổ gà. Ngồi xe tôi cứ va bên này, chạm
bên kia giữa hai đồng nghiệp người Anh to lớn. Tôi nhìn sang bên kia
đường là “Nghĩa Trang Liệt Sĩ Xã Phụng Thượng Trong Cuộc Chiến Tranh
Chống Mỹ.” Bên này đường là “Quán Thịt Chó Thơm Ngon.” Đây, con đường
cái quan của Phạm Duy từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, con đường mà bà nội
tôi đã đội nón lá đi bộ dưới nắng chang chang trốn ra Hà Nội ngày ông
bà nội tôi bỏ làng vô Nam.
Tôi nhắc đi nhắc lại như người mất hồn với hai đồng nghiệp:
“Sao mà nó nhỏ thế, con đường này, đồng ruộng này, đường chân trời này!”
“Ông nội tôi bị kết tội địa chủ vì có chút đồng ruộng này sao ?”
Hai
người đồng nghiệp nhún vai, không nóị Tôi không nghe tiếng linh hồn cô
tôi đón chàọ Quanh tôi chỉ có hai đồng nghiệp người Anh im lặng.
Tất
cả không giống như trí tôi tưởng tượng. Khi tôi đã quen nhìn xa lộ
thênh thang của nước Mỹ, những vườn táo mênh mông ở Illinois, những vườn
cam bát ngát ở Floridạ Tôi cứ hỏi đi hỏi lại, ông tôi suýt nữa bị dẫn
ra đình làng chịu đấu tố chỉ vì ít mẫu ruộng này ử Trong bao nhiêu năm
nghe ông bà tôi kể chuyện, không hiểu sao tôi cứ tưởng tượng ruộng đất
phải bao la cò bay thẳng cánh như tiểu bang Arizonạ Phải nhiều lắm, lớn
lắm thì mới bị tố địa chủ chứ? Bây giờ sau chuyến về thăm đó, tôi mới
biết thế nào là sự nho nhỏ, con con, như cái nước Việt Nam trên bản đồ
thế giới, như cái số phận nho nhỏ, con con của con bò, của cái xe bò,
của hai người đàn bà tát nước. Ngay cả đến ruộng đất phì nhiêu đã gây
nên cái án địa chủ cho ông bà nội tôi cũng nho nhỏ, con con. Cái thảm
khốc của nhân loại lại nằm ở trong những gì nho nhỏ, con con?
*
Trong
công trình nghiên cứu về bố tôi năm lên sáu, tôi bắt gặp tấm ảnh 4 x 6
của một cậu con trai, dán trên thong tín bạ. Cậu có hai con mắt dài,
xếch như một nét mực tàu sắc sảọ Khi lớn lên, tôi mới hiểu đó là cặp mắt
Sơn Tây đã làm xót xa lòng Quang Dũng. Bên nội tôi, đa số đều có cặp
mắt đó. Ngay cả những đứa em họ sinh sau đẻ muộn làm công dân Mỹ, lọt
lòng mẹ trong nhà thương Mỹ, cũng mang vào Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cặp mắt
Sơn Tây của núi rừng Việt Bắc.
Mẹ
tôi kể trong thời gian học trường Bưởi, bố tôi theo học phong cầm với
một ông cố đạọ Rồi mua đàn của ông. Đó là tiểu sử chiếc phong cầm của bố
tôị Nó xuất thân từ nước Ý, du nhập vào Hà Nội đầu thập niên 50.
Khi
di cư vào Nam, ông bà tôi đi trước, bố tôi là người cuối cùng rời Hà
Nội vào Nam. Bố tôi đáp xe lửa từ Hà Nội xuống Hải Dương, rồi đạp xe đạp
từ Hải Dương xuống Hải Phòng. Bố tôi để cây đàn ghi-ta, thêm cái phong
cầm lên xe đạp mà đạp. Trên đường đi, ông bán mất cái ghi-tạ Bán luôn
đôi giày dạ Nhưng không bán chiếc phong cầm. Bố tôi lên tàu bay vào Nam,
có chiếc phong cầm mà không có đôi giày che gót. Tôi mường tượng cậu
con trai có cặp mắt Sơn Tây đạp xe đạp, đèo theo chiếc phong cầm, những
vòng bánh xe cũng giống như những vòng bánh xe bố tôi đạp chở tôi đi học
dương cầm ở Huế.
Chiếc
phong cầm theo cậu trai trẻ lên máy bay từ Hải Phòng vào Sài Gòn. Rồi
vào trại sinh viên. Bố tôi sống nghèo ở miền Nam mà đi học trong kiếp di
cự Chiếc phong cầm luôn luôn đi theo ông như một tình nhân yêu kiều,
chung thủy.
Rồi
bố tôi ra Hội An, dạy trường Trần Quý Cáp, vẫn khư khư giữ cái phong
cầm. Tôi ra đời trong tình yêu của bố mẹ và được tặng cho cái tên Trần
Thị Như Hội An. Sau mẹ tôi đổi thành Trần Thị Như Hoài An để tránh dấu
nặng trong tên con gáị Ngày mẹ tôi ẵm tôi từ bệnh viện về nhà, chắc là
cái phong cầm đứng nhìn đâu đó, mà tôi thì nhắm tít mắt như mọi trẻ sơ
sinh khác. Rồi bố tôi đi Pháp. Khư khư đem cái đàn theọ Mẹ tôi phàn nàn:
“Ở bên ấy thiếu gì đàn, vậy mà cha con cũng đem nó theo cho được.” Mẹ
con chúng tôi ở nhà, chứ cái đàn thì đi Pháp theo bố tôị
Công
cuộc nghiên cứu về bố tôi năm tôi lên sáu tuổi vẫn tiếp tục suốt thời
gian 1964-65. Tôi kiếm thấy bức hình đen trắng bố tôi ngồi bên lan can
căn phòng sinh viên ở đại học xá lầu bốn. Paris trải rộng dưới chân. Bố
tôi gầy như cây tăm, ngồi ôm chiếc phong cầm, gác hai chân lên lan can
màu đen, nom rất thoải mái và rất “hip.” Tôi nhìn bức hình ấy mà mơ ước
sau này mình cũng đi du học Paris và cũng ngồi gác chân lên lan can nhìn
xuống thành phố. (Tôi đâu ngờ rằng, sau này lớn lên tôi làm một cuộc du
học trường kỳ…).
Rồi
thì cái đàn theo bố tôi về nước. Và tôi gặp nó ở căn phố Nguyễn Trường
Tộ, Huế. Lần này thì tôi thôi không nhắm tít mắt như một trẻ sơ sinh
nữạ.
Tôi
nhớ mãi buổi chiều mưa phùn xứ Huế. Tôi trốn bố tôi (tôi thường hay
chơi trò “trốn tìm”) sau bức màn cửa phòng khách. Bố tôi đánh đàn xong
thì để nó trên ghế. Thế là tôi nhảy tỏn rạ Tôi đứng mân mê, sò mó cái
đàn. Tôi bấm thử, sao đàn không ra tiếng? Tôi khệ nệ tìm cách đeo nó vào
cổ. Tôi say mê, nâng niu nó. Ôi tiếng hát hành quân xa với những chiều
Chủ nhật buồn không nắng trong căn nhà nóng hâm hấp lặng nghe gió đi về!
Ai xui khiến cho cái đàn này làm mọc chất nghệ sĩ trong tôị Để ba mươi
bốn năm sau tôi từ bỏ Goldman Sachs? Tôi muốn ẵm nó lên để đu đưa như bố
tôị Nhưng nặng quá. Cứ thế này thì nếu tôi không té, cái đàn cũng sẽ
té. Bỗng bố tôi bước vàọ Tôi sợ muốn khóc vì bị bắt quả tang, tưởng rằng
sẽ bị đòn. Nhưng không, nét mặt bố tôi bình thản, đôi mắt Sơn Tây như
hai vết mực tàu sắc nét. Đó là lúc ông thấy tôi bé quá không bê nổi
chiếc phong cầm. Ông quyết định đem tôi đi gặp Sơ Josephine để xin học
đàn dương cầm.
Từ
hôm đó, sáng nào ông cũng gọi tôi dậy sớm, bắt uống sữa, thay váy đầm.
Rồi chở xe đạp đưa tôi đến trường Jeanne d’Arc học đàn…
Chung
qui cũng bởi tại cái phong cầm của bố tôị. Bạn đọc có tin rằng cái
chết không kết liễu đời người, vì phần hồn còn đi về đâu đó. Bởi thế mẹ
tôi cứ cúng tổ tiên ông bà, bắt tôi thắp nhang mà lạỵ Người Việt Nam
chúng ta thờ linh hồn những người thân đã chết.
Năm
lên sáu, tôi tự hỏi vật vô tri chết đi có còn phần hồn vất vưởng hay
không. Năm 1964, chiếc phong cầm gặp tôi, rồi nó mất đị Và tôi thắc mắc
mãi phần linh hồn của nó đi đâủ Và tôi thắp nhang cúng nó được không?
Xứ
Huế không phải là xứ yên bình. Cái yên bình của Huế chỉ là yên bình giả
tạọ Những năm 1963-65, Huế là một ngọn lửa hừng hực, sẵn sàng bừng cháỵ
Hồi đó lần đầu tiên trong đời tôi được nghe danh từ “đấu tranh”. Năm
lên sáu, ở thành phố Huế buồn ngủ ấy, tôi chưa đủ trí tuệ để hiểu thế
nào là đấu tranh, nhưng tôi đã mường tượng một điều gì ghê sợ. Rằng tôi
sinh ra trong một xứ sở có nhiều vấn đề. Những vấn đề ấy ở ngoài tầm tay
tôi, nhưng chúng tạo nên định mệnh của tôi, như lưới giăng, như cơn lốc
kéo thốc tôi vàọ
Dấu
hiệu bất an đầu tiên là ngày Phật Đản. Một ngày vui mừng tôi và các em
tôi mong mỏi để được xem xe hoa. Thế nhưng mẹ tôi cấm không cho chúng
tôi đi xem. Xe hoa đi ngang nhà tôi, mẹ tôi không cho chúng tôi ghé đầu
ra xem.
Bảo
nguy hiểm. Chúng tôi vẫn thấy được tượng Phật đứng trên tòa sen trắng
nõn, tay chỉ lên trờị Nom Phật bụ bẫm dễ thương. Em tôi bảo: “Sao Phật
giống em bé quá!”
Thường thường mẹ tôi hay cho chúng tôi đi chùa Từ Đàm. Nhưng năm đó, chúng tôi không được lên chùa, mặc dù tôi thích lên chùa để được múạ “Một hôm, một hôm mồng một đến chùa, cùng me đi lễ Phật, dâng vài hoa sen.” Trong trí nhớ tôi, bên cạnh những điềm bất an đó, tôi vẫn hình dung thấy hình ảnh bố tôi kéo phong cầm để nói chuyện với tôi qua Lời Buồn Thánh và Tiếng Hát Hành Quân Xạ
Thường thường mẹ tôi hay cho chúng tôi đi chùa Từ Đàm. Nhưng năm đó, chúng tôi không được lên chùa, mặc dù tôi thích lên chùa để được múạ “Một hôm, một hôm mồng một đến chùa, cùng me đi lễ Phật, dâng vài hoa sen.” Trong trí nhớ tôi, bên cạnh những điềm bất an đó, tôi vẫn hình dung thấy hình ảnh bố tôi kéo phong cầm để nói chuyện với tôi qua Lời Buồn Thánh và Tiếng Hát Hành Quân Xạ
Tôi
không biết mặt những người bạn văn nghệ của bố tôi, từ họa sĩ Đinh
Cường cho đến nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Tôi chỉ nhớ có một ngườị Đó là chú
M., một nhạc sĩ. Tôi rất yêu chú M. Chú ấy vui tính và buồn cười lắm. Cả
nhà ai cũng yêu mến chú M. Trong những ngày tháng đó, bố tôi ít nói, ít
kéo phong cầm. Cái đàn nằm cô đơn.
Thỉnh
thoảng chú M. vẫn ghé chơị Hai người đóng cửa phòng nói chuyện rì ràọ.
Rồi một hôm, chú M. lại ghé thăm. Bố tôi mặc áo đi theọ Ông dặn mẹ tôi
ông sang nhà chú M. ở phía bên kia song Bến Ngự. Dãy phố Nguyễn Trường
Tộ nằm bên này sông.
Bên
kia cầu là nhà thờ Phủ Cam. Bên trái nhà thờ là một dãy nhà kiểu Tây
rất đẹp. Một trong những căn nhà đó là nhà chú M. ở. Bố tôi dặn gia đình
là ông sẽ đi khá lâụ Ông đi theo chú M. Đã ra đến cửa, ông còn quay lại
lấy chiếc phong cầm. Cái đàn đi theo ông qua nhà chú M.
Đó
là lần cuối cùng tôi nhìn thấy chiếc đàn. Tôi linh cảm cái gì không hay
sẽ xảy ra. Tôi chạy theo nắm áo bố tôi đòi đi theọ Tôi bíu chiếc đàn
như muốn giữ nó lạị Chú M. chế giễu tôi con gái hay khóc nhè.
*
[Phần
kế tiếp nói về nhân vật chú M. và nguyên do sự mất mát chiếc đàn phong
cầm, người dịch đề nghị bỏ đi để nội dung được thu ngắn].
Hôm
sau, bố tôi nói lên điều mà tôi đã biết: “Bố không còn chiếc phong cầm
nữạ” Tôi tuột khỏi vòng tay của bố tôị Tôi chạy ra đứng trước cửa nhà
ngắm sông Bến Ngự. Tôi nghe có ngọn gió đi về. “Chiều chủ nhật buồn lặng
nghe gió đi về.” Trên ngọn gió đi về, có linh hồn chiếc phong cầm của
bố tôi không? Từ đó, bạn đọc có thể đoán ra, bố tôi chẳng bao giờ kéo
phong cầm nữạ
*
Con
bé Hoài An lên sáu, tuy đầu óc non nớt đã lờ mờ hiểu thế nào là sự sụp
đổ của một chế độ. Khi một chế độ sụp đổ, có thể có súng ống, có lửa
cháy, có tan cửa tan nhà, có người phải đi trốn, có hình ảnh, tượng, đồ
treo bị đem ra đập bể, xé tan. Có những sự mất mát tận gốc rễ tâm hồn
như trường hợp chiếc phong cầm của bố tôi mà tôi đã đem lòng yêu mến. Có
sự thay đổi lối sống như bố tôi không kéo phong cầm nữa. Và tôi lờ mờ
hiểu rằng, ở chế độ nào đi nữa, con người cũng có thể gây phiền toái cho
nhaụ
*
Hơn
mười năm sau, 1975, tất cả những điều tôi lờ mờ nhận thấy hồi lên sáu
lại xảy rạ Như cái cộng nghiệp của một nơi chốn, một đám đông. Cái định
mệnh của tôi. Một cá nhân nhỏ bé bị cuốn trôi vào dòng sinh mệnh lịch
sử. Tôi muốn nói đến cuộc di tản 1975. Lần này, tôi hiểu thấu đáo hơn.
Hiểu nhiều đến nỗi mắt tôi ướt và tôi nhói ở tim. Chúng tôi, tất cả
chúng ta cũng như cái phong cầm. Người Mĩ nói là “nằm sai chỗ, ở sai
lúc” (be in the wrong place, at the wrong time). Đôi khi tôi phân vân tự
hỏi, nếu tôi không là người Việt sinh trưởng ở miền Nam, và nếu tôi
không là một trong mấy trăm ngàn người Việt di tản đến Mỹ, thì cuộc đời
của tôi như thế nào?
Như chiếc phong cầm, tôi là kẻ sinh sai chỗ, ở sai nơi, hay tôi là người may mắn, ở đúng chỗ, nằm đúng nơi?
Bây
giờ, trong những tháng ngày về già, sắp từ giã nghề dạy học để về hưu,
bố tôi có lẽ không có những người bạn như chú M. nữạ Ông hay nhắc tới
những người học trò cũ trường Trần Quý Cáp. Chắc đó là một khoảng đời
đẹp trong nghề dạy học của bố tôi.
Trong
những ngày đã rời Goldman Sachs, có lần tôi mang bố mẹ đi mua sắm. Gặp
một thương gia chủ cửa hàng cũng là học trò cũ của bố tôi ở quận học
chánh Houston. Vị thương gia tay bắt mặt mừng, bảo rằng khách thường thì
lấy giá X., khách đặc biệt sẽ giảm giá tối đa, giá Z. Còn thầy học thì
bớt 10 phần trăm, tức là giá Y, giá “ở giữạ” Vì bố tôi là thầy dạy, ông
được hưởng giá giảm hạng vừa, hạng “ở giữạ”
Một
lần khác nằm trên ghế dài, tôi thấy bố tôi ở trên lầu đi xuống. Tôi
đang đọc cuốn sách của một nhà văn Việt Nam, ông P.X.Đ., sách viết về Hà
Nộị Tôi nhắc đến tên ông. Mắt bố tôi sáng lên: “Anh ấy cũng đi tù cải
tạo nhiều năm như chú M. đấỵ” Tôi thắc mắc mãi về câu bố tôi nói, và ánh
mắt sáng của ông. Tại sao mắt bố tôi không sáng lên khi gặp người
thương gia Mỹ giàu sụ vì nghĩ đến thầy mà bớt giá 10 phần trăm? Tại sao
ánh mắt ấy chỉ sáng lên khi nhắc tới tên một nhà văn Việt Nam? Chẳng lẽ
bố tôi hẹp hòi chỉ thương học trò người Việt mà không thương học trò
người Mỹ? Tại sao bố tôi chán việc dạy học ở Mỹ, mà vẫn làm giáo sư
gương mẫu, không bỏ lớp, không trễ nãi bao giờ. Ông vẫn cắm cúi soạn
bài, tô kẽ chữ làm bảng hiệu cho lũ học sinh non dạị Nói theo kiểu đùa
của em gái tôi “bố tôi chăm chỉ vì sợ bị Mỹ nó cười” (hay mất việc!) Sự
việc không thể giản dị như thế. Tôi thắc mắc mà không nghĩ ra được câu
trả lời, bên tai vẫn nghe văng vẳng tiếng phong cầm của bố tôi. Chao ơi!
Tiếng phong cầm của bố tôi.
*
Tháng
ba năm nay, 1996, ông tôi mất. Cụ Tổng Nho Sơn Tây đã nằm xuống. Trước
mặt con cháu, bố tôi khóc cha mà than mình không làm được gì cho đất
nước. Theo lời bố tôi, ông nội tôi đã làm đường gạch cho làng trong thời
kỳ ông làm việc xã. Nhìn bố tôi đứng khóc cha, tôi rung mình nghĩ đến
một ngày nào đó, tôi cũng phải khóc cha mẹ như bố tôi đã khóc thương ông
tôi.
Tôi tự thôi thúc, giục giã, và biết mình phải làm gì ngay bây giờ.
Việc
đầu tiên, tôi sẽ đi mua tặng bố tôi một chiếc phong cầm, cho dù ông
không còn tha thiết với đàn, và bố con tôi không còn nói chuyện với nhau
qua tiếng đàn như hồi tôi còn thơ ấu.
Việc
thứ nhì, tôi sẽ tìm mua cho được cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thự Tôi sẽ
chậm rãi mà đọc. Tôi đã khước từ nghề giáọ Để giờ phút này, tôi hiểu rõ
và tự quay về với bản chất của mình. Tôi với bố tôi trong căn bản như
nhaụ Dù muốn hay không muốn, tôi vẫn là sản phẩm của quốc văn giáo khoa
thự Mà đã là quốc văn giáo khoa thư thì tôi không thể là Goldman Sachs.
Việc
thứ ba, tôi ngồi xuống trước máy vi tính. Và tôi bắt đầu viết. Thế hệ
tôi giống như những con người cá, nửa người nửa cá. Khi mất đầu cá, mọc
lên đầu người là có sự mất mát. Khi đôi chân người biến mất đổi dạng
thành đuôi cá là có sự mất mát. Phải có sự mất mát, mới nảy mầm cái mớị
Ông tôi nằm xuống, đó là sự mất mát phải có, và thế hệ sau của chúng tôi
lớn lên.
Cho
nên tôi đang viết về sự mất mát. Sự thay đổi làm tê tái phần hồn. Đó là
đời sống. Sau ba mươi tư năm, tôi hiểu được sự mất mát trong đời bố
tôi.
Tôi
viết, vì tôi muốn đi tìm lại cho chính tôi (và cho bố mẹ tôi, những nhà
giáo tị nạn dạy văn chương) hình ảnh Chim Hót Trong Lồng, Những Vì Sao
Của Diệu, Mối Tình Chân, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Con Sáo Của Em Tôi,
vân vân.
Những cái đẹp đã mất của một thời đã qua sẽ chìm vào quên lãng.
Tôi
viết vì sau khi đã đi nửa cuộc đời, tôi mới biết mình không phải là
linh hồn Goldman Sachs. Tôi cũng chẳng có hân hạnh mang linh hồn Karl
Marx, Angel, hay của bất cứ ai khác. Tôi chỉ hy vọng là chút gì còn sót
lại của linh hồn văn hóa giáo khoa thư.
Tôi viết, vì tôi mãi mãi nhung nhớ, và muốn giữ mãi trong lòng, vẻ đẹp và vẻ sáng, từ chiếc phong cầm của bố tôi.
Dương Như NguyệnDịch và tóm tắt từ nguyên tác “My Father’s Accordion”
(*) Goldman Sachs là tên một cơ quan kinh tài thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ.
https://www.vietthuc.org/my-fathers-accordion-chi%E1%BA%BFc-phong-c%E1%BA%A7m-c%E1%BB%A7a-b%E1%BB%91-toi/
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire