Tân nhạc Việt Nam ra đời muộn hơn nghệ thuật cải lương chừng thập kỷ, khoảng 1930. Theo nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là “giai đoạn tượng hình”. Còn Phạm Duy cho rằng, thập niên 30 là “thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới”.
Theo tài liệu Lịch sử Âm nhạc Việt Nam, Nguyễn Văn Tuyên sinh năm 1909 ở Huế. Ông được học nhạc Tây từ lúc nhỏ, tự học căn bản từ những sách giáo khoa về lý thuyết âm nhạc của Pháp. Năm 1936 ông di cư vào Nam và trở thành người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique) ở Sài Gòn. Ông bắt đầu hát nhạc Tây và được cảm tình của báo chí và radio (truyền thanh). Năm 1937 ông phổ bài thơ ‘Kiếp Hoa’ của bạn ông là nhà thơ Nguyễn Văn Cổn và viết thành ca khúc đầu tay cùng tên. Thống đốc Nam Kỳ (Cochinchina) khi đó Pagès nghe ông hát và mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt Nam để quảng bá những bài nhạc mới này.
Năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên có những buổi biểu diễn và diễn thuyết ở Huế, Hải Phòng và Hà Nội. Những bài hát đầu tiên của ông khi đó là Kiếp hoa, Bông cúc vàng và Anh hùng ca. Sau đó tờ Ngày Nay của Nhất Linh đã xuất bản một vài tác phẩm của Nguyễn Văn Tuyên cùng với của các nhạc sĩ khác. Nguyễn Văn Tuyên tiếp tục trình diễn ở Hải Phòng và Nam Ðịnh cho những khán giả nhiệt tình.
Những bài hát tình cảm lãng mạn bắt đầu lan truyền phổ biến, các nhóm Myosotis và Tricéa cùng các nhạc sĩ khác cũng bắt đầu tung ra những ca khúc của mình viết trước đó một hai năm như: Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có Xuân năm xưa năm 1936.
Từ đây, tân nhạc Việt Nam bắt đầu hình thành và phổ biến và nhạc sĩ Phạm Duy gọi là “thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam”. Theo đánh giá của các nhà phê bình, tuy là người khai sinh ra tân nhạc, quảng bá nhiều ca khúc ra công chúng nhưng những sáng tác của Nguyễn Văn Tuyên không thực sự có giá trị nghệ thuật cao, nên với thời gian chúng đã bị quên lãng. Ông mất tại Sài Gòn, thọ đúng 100 tuổi.
Một nhân vật nữa có công trong việc phổ biến tân nhạc và sân khấu nữa là nghệ sĩ Tư Chơi, tên thật là Huỳnh Thủ Trung (người chồng đầu tiên của nghệ sĩ Phùng Há). Là một nghệ sĩ thực thụ về nghệ thuật cải lương, đàn và biên soạn tuồng cho gánh hát Huỳnh Kỳ và sau đó là gánh Trần Ðắc ở Mỹ Tho, nghệ sĩ Tư Chơi rất am hiểu về nhạc lý phương Tây. Vào năm 1929, ông viết bài tân nhạc Tiếng nhạn đêm xuân và nhiều ca khúc khác đưa tân nhạc vào trình diễn cùng tuồng cải lương như một cách làm phong phú thêm hình thức trình diễn. Thời đó các bản nhạc tình của Pháp rất thịnh hành ở Sài Gòn, Hà Nội và các thành phố lớn ở Việt Nam như bài J’ai deux amours, Marinella, Ma Tikiki Ma Tonkinoise, Tant qu’il y aura des étoiles… do nam ca sĩ Tino Rossi và nữ ca sĩ Joséphine Baker ca, ông đã viết lời Việt các bản nhạc này và cho nghệ sĩ ca trong tuồng cải lương.
Bấy giờ gánh Trần Ðắc có cô đào Kim Thoa còn rất trẻ hát cải lương rất hay lại có giọng ca tân nhạc trong trẻo, cao vút được khán giả ngưỡng mộ. Sau khi gánh Trần Ðắc tan rã, ông cưới cô đào Kim Thoa và lập nên gánh hát Kim Thoa. Gánh hát này có cả một dàn nhạc Tây dưới sự điều khiển của nhạc trưởng Bénito. Nhờ vậy các bài ca nhạc Pháp lời Việt được dàn nhạc nầy đệm cho ca sĩ hát, thu hút khán thính giả trong giai đoạn mà âm nhạc cải cách và nhạc Tây lời Việt đang rất thịnh hành ở Việt Nam. Nhiều nhà bình luận tân nhạc đều công nhận ông Huỳnh Thủ Trung được xem như nhạc sĩ sáng tác tân nhạc đầu tiên của Nam Kỳ.
Trang Nguyên
*
* *
* *
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire