Khánh
Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở
độ cao khoảng 1,000 met, cạnh Quốc Lộ 21, nối
liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải Tỉnh
Khánh Hòa, cách QL 1 khoảng 60 km. Khánh Dương là vùng đất
đồi núi trong khung cảnh thiên nhiên bao quanh bởi những
khu rừng già thật hùng vĩ, như che chở sự sống
bình yên cho những người dân di cư trú ngụ từ
bốn phương trời. Hầu hết, họ là những
gia đình quân nhân di hành theo bước quân ngũ đến
đây lập nghiệp sinh sống. Quanh Khánh Dương là
những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu
số hiền hòa sinh sống.
Vào
những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng
trên cao nguyên, phòng thủ Khánh Dương được
tăng cường Trung Đoàn 40 thuộc SĐ22BB do Đại
Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng và hai Tiểu
Đoàn ĐPQ thuộc Liên Đoàn 922 Địa
Phương Quân thuộc Tiểu Khu Khánh Hòa trấn giữ.
Sau khi chiếm lỉnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các Tỉnh
Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, Cộng quân muốn tiến về
vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Hòa, Phú Yên và
Qui Nhơn nên bằng mọi giá họ phải bứng Khánh
Dương.
http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/TranKhanhDuongQuanKhu2.htm
Cách Khánh Dương về hướng
Đông dọc theo quốc lộ I không bao xa, núi Đá Bia nằm
trên Đèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối
đá lớn trông như tạc hình ảnh mẹ bồng
con đứng nhìn ra biển gọi là hòn Vọng Phu, hay còn
gọi là núi Mẹ Bồng Con.( Sự tích Hòn Vọng Phu dựa theo câu truyện
dân gian: Trong thời tao lọan, có hai anh em ruột vì chạy
giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và
cô gái gặp nhau vì không nhận ra nhau nên thương yêu nhau
và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được
đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc.
Thế rồi một ngày, người chồng gội
đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần mò
câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết
sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ.
Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói
cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm
chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con
lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá)
Lực Lượng Ðịch : :
-
SÐ F10. chủ
lực tấn công BMT.
-
SÐ320 đã bị thiệt hại nặng
khi đụng độ với Nhảy Dù ở Thượng
Ðức.
-
SÐ316 CSBV từ
Nam Lào tiến sang
-
5 Trung Ðoàn pháo
binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và phòng không.
-
1 Trung Ðoàn Chiến
Xa, một Trung Ðoàn Ðặc Công.
-
2 Trung Ðoàn Công
Binh, Một Trung Ðoàn Thông Tin.
Lực
Lượng Bạn :
-
Trung Đoàn
40/SĐ22 Bộ Binh. do Đại Tá Thiều làm Trung
Đoàn Trưởng
-
Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù, LĐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm :
* Tiểu
Đoàn 2Nhảy Dù, TĐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh
* Tiểu
Đoàn 5Nhảy Dù, TĐT Trung Tá
Bùi Quyền
* Tiểu
Đoàn 6Nhảy Dù, TĐT Trung Tá
Nguyễn Hữu Thành.
* Tiểu
Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TĐT là Thiếu Tá Nguyễn
Văn Triệu.
* Đại
Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ĐĐT là Đại Úy
Nguyễn Viết Hoạch.
-
2 Tiểu
Đoàn thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương
Quân/Tiểu Khu Khánh Hòa
-
1 chi đoàn M113
Diển
Tiến :
Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư
đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến
về giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên,Trung
tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh Quân sự
của Tổng Thống, đã họp mật với Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn
2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực
lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên,
di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc
lãnh thổ Quân khu 2.
Vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 tháng
3,1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng
Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với
thành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân; Chuẩn tướng Phạm
Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại
tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động
quân Quân khu 2 (gồm 5 liên đoàn Biệt động quân),
Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng QĐ 2
& Quân khu 2.
Mở đầu cuộc họp đặc
biệt này,Tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống
VNCH gắn cấp Chuẩn tướng cho Ðại tá Phạm
Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dung cuộc
họp tại Cam Ranh và chỉ định Chuẩn Tướng
Trần Văn Cẩm và tân Chuẩn Tướng Phạm
Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao
nguyên.
Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm
Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một
số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu
đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ
Tư lệnh Quân đoàn2 / Quân khu 2 tại đây.
Sau khi tấn chiếm hoàn
toàn thị xả Ban Mê Thuột, Công Quân gấp rút điều
động các Sư Đoàn 320, 316, 968, và F10 di chuyển tiến
chiếm Pleiku và khi biết được Pleiku bỏ ngỏ
họ điều quân tấn công thẳng xuống khu vực
đồng bằng dọc theo duyên hải qua hai ngã QL 19 và
QL 21.
Ngày 15/3/1975, LĐ3ND đang trấn
đóng tại Đại Lộc Quảng Nam sau chiến trận
Thượng Đức, được lệnh bàn giao khu
vực trách nhiệm cho Lữ Đoàn 369 TQLC và xuống 2
tàu Dương Vận Hạm HQ504 và HQ404 của Hải Quân
tại cảng Đà-Nẳng để xuôi Nam về phòng
thủ SàiGòn theo lệnh triệt thoái của bộ TTM.
Trong lúc đó,Thiếu Tướng Phú xin bộ Tổng Tham
Mưu cho LĐ3ND tăng viện để lập phòng tuyến
mới tại Khánh Dương.Cùng một lúc LĐ2ND
được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm phiá Bắc
đèo Hải Vân cho TQLC và được không vận thẳng
về SàiGòn.
Theo lịch trình di tản của Quân Khu
2, ngày 16/3/1975, một số đơn vị tiếp vận,
Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân
xa, với sự yểm trợ của đơn vị Lữ
Đoàn 2 Kỵ Binh, Liên Đoàn 7 BĐQ đã khởi hành ra
khỏi thị xã Pleiku, đây là lực lượng đi
đầu của của đoàn quân triệt thoái khỏi
Pleiku.
Khi Tiểu đoàn
58/LĐ7BĐQ tiến chiếm đỉnh đèo Cheo Reo và
làm chủ tình hình trận địa thì CQ dùng chiến xa tấn
công và bao vây lực lượng BĐQ ở phía dưới
chân đèo hướng tỉnh lỵ Phú Bổn. CácTiểu
đoàn 32 và 85BĐQ, Pháo binh và phân đội hỏa tiễn
TOW đã dàn đội hình chống trả quyết liệt.
Trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Liên đoàn 7
BĐQ xin phi pháo yểm trợ, 40 phút sau, oanh tạc cơ
của Không quân VNCH đến oanh kích CQ quanh trận tuyến.
Đến 18 giờ 05 phút, chiến trường mới tạm
im tiếng súng, nhưng Cộng quân vẫn còn áp lực
quanh đoàn quân di chuyển.
Chiều 18/3/1975, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 2 về đến Hậu Bổn, tỉnh lỵ
tỉnh Phú Bổn, nơi Quân đoàn 2 đặt Bộ
Tư Lệnh nhẹ để điều động cuộc
triệt thoái, điểm đến là vùng duyên hải còn
cách hơn 160 km. trong khi Công binh chưa làm kịp cầu
phao bắc qua sông Ê-Pa.
Tối 18/3/1975, Cộng quân lẻn vào khu
vực Tây Nam
của vòng đai tỉnh lỵ Hậu Bổn, sử dụng
súng cối pháo kích vào một số vị trí dừng quân của
các đơn vị triệt thoái. Phi trường Hậu Bổn
cách Bộ Tư lệnh nhẹ Quân Đoàn 2 chưa đến
2 km bị Cộng quân chiếm. Liên đoàn 7 BĐQ
được điều động phản công, đẩy
lùi Cộng quân ra khỏi khu vực Tây Nam của tỉnh lỵ.
Kịch chiến diễn ra suốt đêm và kéo dài đến
ngày hôm sau.
Chiều ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh
Quân Đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất
thủ. Một số lớn chiến xa M 48 và M 41 của Lữ
đoàn 2 Kỵ Binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu
Bổn.
Trong ngày nầy, đang trên đường
xuôi Nam sau 2 ngày và 3 đêm hải hành, LĐ3ND được
lệnh đổ quân xuống Cầu Đá Nha Trang để
tăng viện cho mặt trận Quân Khu 2. Sau khi cập Bến
Nha Trang, Trung Tá Lê Văn Phát LĐT/LĐ3ND nhận lịnh
từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú: Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù điều động 3 Tiểu
Đoàn cơ hữu 2, 5 & 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu
Đoàn Pháo Binh 105 ly và Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy
Dù đến lập tuyến phòng thủ dọc theo QL21
trên đèo M’Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng
Hoàng đến Khánh Dương.
Trong khi cuộc triệt thoái của lực
lượng Quân đoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh
lộ 7 B, thì tại tỉnh Quảng Đức,vào trưa
ngày này, Cộng quân đã tấn công cường tập vào
tỉnh lỵ và chi khu Kiến Đức, chi khu trưởng
Kiến Đức bị thương. Đến 3giờ
20 chiều 20/3/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất
liên lạc với Đại tá Nghìn-Tỉnh trưởng/Tiểu
khu trưởng Quảng Đức.
*Cộng quân áp lực Khánh
Dương
Cùng lúc tấn công vào Quảng Đức,
trong ngày 20/3/1975, Cộng quân đã áp lực nặng ở Bắc
Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa. Tin tức tình báo ghi nhận
sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn
320 CSBV đã từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh
Dương, cách địa điểm này 8 km về hướng Tây Bắc.
Ngày 20/3/1975 Trung Tá Lê Văn Phát ra lệnh
cho BCH/LĐ3ND,TĐ2ND,TĐ3PBND, ĐĐ3TSND theo đường
bộ kéo lên Dục-Mỷ, Ninh Hoà. TĐ5ND và TĐ6ND rải
quân bố trí từ núi Chu Kroa (3100m) dọc theo QL21 dài khoảng
30 cây số về Khánh Dương. Phiá Nam cuả LĐ3ND có một
TĐ Điạ Phương Quân trấn giử. Tại
đèo Cả trên QL1 có TĐ34BĐQ trách nhiệm trấn giữ.
Mặt Trận Quân Khu 2 cuối
tháng 3/1975
Sáng ngày 21/3 tất cả đơn vị
thuộc LĐ3ND đều sẳn sàng tại vị trí chiến
đấu của mình. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá
Bùi Quyền làm TĐT trấn ngự tại phía Nam Thị
trấn Khánh Dương cạnh QL21; Tiểu Đoàn 6 Nhảy
Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Thành làm TĐT trấn ngự tại
cao điểm 957m Buôn Ea Thi. Và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù
trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. BCH
Lữ Đoàn , TĐ3 Pháo Binh và Đại Đội 3
Trinh Sát đóng tại Dục Mỹ.
Vào lúc 12 giờ 15 ngày 21/3/1975, phi trường
Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ
di chuyển về vị trí cách phi trường Khánh
Dương khoảng 1 km về hướng Nam. Tin tức
tình báo cho biết 2 Sư Đoàn cộng sản F10 và 320 từ
Ban Mê Thuột sẽ tiến đánh Khánh Dương bứng
nút chặn LĐ3ND để dọn đường tiến
thẳng về Sài Gòn.
Sau khi quan sát trận địa, Trung Tá
LĐT yêu cầu Quân Đoàn tăng viện ít nhất một
Sư Đoàn Bộ Binh hậu thuẩn để cho Lữ-Đoàn
3 Nhảy Dù có thể xung kích ngăn chận đà tiến
quân của địch quân. Quân đoàn đã trả lời
không còn quân để tăng viện.
17 giờ 45, Một Trung Đoàn của
SĐF10 CSBV tấn công vào TĐ2/40/22BB tại 10km phía Tây
Khánh Dương (cây số 62).Gần 100 Công quân bỏ xác tại
trận và 2 tù binh. Đây chỉ là trận đánh dò dẫm
của Công quân.
Sáng ngày 22/3/1975, mặt trận Khánh
Dương bị áp lực nặng. Lực lượng CQ
đã dốc toàn lực mở cuộc tấn công phòng tuyến
Khánh Dương.
7.30 giờ Công quân mở trận địa
pháo kinh hồn vào các đơn vị phòng thủ phía Tây
Khánh Dương. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại
tới tấp rơi vào các căn cứ phòng thủ của
Trung Đoàn 40BB và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương
Quân Tỉnh Phan Rang. Sau đó SĐF10/CSBV dốc toàn lực
biển người với xe tăng yểm trợ tấn
công vào các đơn vị nầy. Sau một giờ giao
tranh các đơn vị phòng thủ bị tràn ngập và cắt
ra từng mãnh nhỏ, trên phân nửa quân số bị
thương vong, một sô tàn quân của các đơn vị
nầy rút về phía Nam cuả phòng tuyến Nhảy Dù rồi
tiếp tục rút về Diên Khánh.
9 giờ 00 sáng Cộng quân tiến về
Chi khu Khánh Dương với 12 chiếc xe tăng hổ trợ
không cần ngụy trang. Sau đó CS pháo đại bác122 ly
vào quận Khánh Dương, đến 9,30 giờ thì chi khu
Khánh Dương mất liên lạc. Đến 10 giờ, Quận
trưởng Khánh Dương báo cáo phải di tản chiến
thuật vì Cộng quân tràn ngập.
Ngày 23/3/1975 Tại mặt trận Khánh
Dương , Cộng quân đã gia tăng áp lực tại
tuyến phòng ngự của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Lữ
Đoàn Trưởng LĐ3ND yêu cầu phi pháo oanh kích
đoàn chiến xa CSBV khoảng 20 chiếc trên đường
kéo lên đèo M’Drak và xin tăng cường lực lượng
Thiết Kỵ cũng như trang bị hỏa tiển TOW
chống chiến xa.
16 giờ 30, nhiều chiến xa của
Cộng quân xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận
lỵ Khánh Dương 2 km về phía Tây Bắc. Ở phía
Đông Nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của Không quân
VNCH ghi nhận có 2 chiến xa T-54. Ở phiá Bắc có nhiều
xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3 km. Không
quân đã thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc
chính xác ngăn chận mức độ tiến quân của
Cộng quân.
Sau đó các đơn vị tiền sát
cuả LĐ3ND bắt đầu chạm địch, với
thế tấn công ào ạt cuả CSBV trên QL21, nhưng gập
sức kháng cự dũng mảnh cuả các chiến sỉ
Nhảy Dù với những trận cận chiến ngoạn
mục địch quân đã bị tổn thất nặng
ngay trận đầu với 5 chiến xa T54 bị hạ
tại trận và hằng trăm xác công quân bỏ lại
chiến điạ.
Với kinh nghiệm già dặn chiến
trường đoán chắc cộng quân sẽ tập kích
sau đó, LĐT/LĐ3ND cho ĐĐ3TSND của Đ/U Nguyễn
Viết Hoạch bung rộng ra dọc hai bên sườn quốc
lộ 21 sẳn sàng nghinh chiến.
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, đúng
như dự đoán của Lữ Đoàn Trưởng
LĐ3ND, trong ngày này, Sư đoàn F-10 CSBV mở cuộc
tấn công toàn diện vào phòng tuyến của Lữ
đoàn 3 Nhảy Dù với quân số gấp 6 lần. Các
chiến sỉ Nhảy Dù không hề nao núng chống trả
mảnh liệt đôi khi phải dùng thế cận chiến
để đối đầu với cộng quân.tại
Khánh Dương, sau cùng lực
lượng Nhảy Dù đã đánh bật cộng quân ra
khỏi phòng tuyến sau những trận kịch chiến.
Ngày 28/3/1975 một đoàn xe tiếp tế
thực phẩm và đạn dược cho LĐ3ND đã
bị cộng quân phục kích đánh tan trên Quốc lộ
21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TĐ5ND
được lịnh lui quân về vị trí TĐ6ND và
TĐ2ND trở thành đơn vị cơ động ứng
chiến và được lịnh giải tỏa QL21 từ
đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để
an ninh lộ trình tiếp tế.
Ngày 29/3/1975 vào lúc 3.00 giờ sáng, Pháo binh
cộng sản đủ loại dập lên tuyến phòng
thủ của Tiểu Đoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng
quân tập trung toàn lực lượng biển người
với các Sư Đoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm
LĐ3ND từ 3 phía. LĐT/LĐ3ND ra lệnh cho các
đơn vị trực thuộc lập “phòng tuyến
thép” không lui. Cho đến
21.00 giờ đêm 4 chiếc Thiết Vận Xa M113 tự
ý rời khỏi vị trí được chỉ định
liền bị bắn cháy ngay tức khắc. Đó là kỷ
luật thép của “Đoàn Quân Mũ Đỏ” khi lâm chiến.
LĐ3ND sau những thiệt hại tại
Thường Đức Quân Khu 1 và hơn một tuần lể
đương đầu với ba Sư Đoàn CSBV
đông gấp 10 lần, không đươc bổ xung,
không được tiếp tế, không chiến xa, không
pháo binh hạng năng hổ trợ, chỉ còn lại khoảng
hơn 1000 chiến binh.
Tuyến đầu tiên là TĐ5ND và TĐ6ND bị địch bao vây tứ
bề. Địch quân đông như kiến cùng quân phòng thủ
đánh cận chiến “xáp lá cà” suốt đêm đến
7.00 giờ sáng mà tuyến phòng thủ vẫn còn giữ vững.
Sáng ngày hôm sau 30/3/1975, trên 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ
làm giảm bớt áp lực của địch quân. Quân Dù gấp
rút tổ chức lại hệ thống phòng thủ.
2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng
quân lại mở cuộc tấn công cường tập mới
vào phòng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại
Khánh Dương. Lữ Đoàn Trưởng báo cáo khẩn
về tình hình cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh
Quân Đoàn 2 ra lịnh "Lữ đoàn Dù cố gắng
giữ phòng tuyến", và hứa sẽ có lực lượng
tăng viện. Một cây cầu trên QL21 dẩn đến
Khánh Dương bị Không Quân VNCH phá sập.. http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/TranKhanhDuongQuanKhu2.htm
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire