Đời Phi Công là một cuốn truyện dưới dạng những bức thư của một phi công viết cho người yêu là sinh viên tên Phượng để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày “lướt gió tung mây”, đêm thì dõi theo “ánh tinh cầu”. Những bức thư ghi lại kỷ niệm vui buồn trong những phi vụ, kể lại một cuộc sống vừa lãng mạn vừa sôi nổi của một phi công thời chiến.
Đời Phi Công ra
đời làm nức lòng các thanh niên thiếu nữ. Thanh niên thì nuôi giấc mộng hải
hồ, thiếu nữ thì mơ có người yêu là một chàng phi công hào hoa “đi mây về gió”. Tác phẩm này đã là
đề tài của nhiều buổi thuyết trình và có những đoạn được trích dẫn trong
chương trình “kim văn” trung học đệ
nhất cấp.
Trong một bức thư gửi cho Phượng khi bước chân sang
Pháp học lái máy bay, Toàn Phong viết: “Em cũng như tất cả những người thân-tình, cũng như tất cả những người
dân Việt, chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân-lực.
Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian-nan muôn trùng anh
cũng sẽ mỉm cười dấn bước”.
Ngôn ngữ trong Đời
phi công là một thứ ngôn ngữ gợi
hình. Tác giả gọi những bức thư là “giòng lá thắm”, ánh mắt của cô Phượng “trông như ánh pha-lê”, hành trình của người con trai thời
chiến như “một chiếc lá vàng đã
trót được thả trên giòng đời” còn phi công được thi vị hóa như
những “tráng-sĩ” hay “hiệp-sĩ không-trung”…
Nếu để ý, ta sẽ thấy những từ Hán-Việt đều được
Toàn Phong viết có gạch nối. Đó là phong cách viết cầu kỳ của
người Sài Gòn xưa. Tham khảo thêm về Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh tại http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/27 (Đà Lạt sương mù: Hồi ức về một người thân).
Phi công VNCH sau phi vụ “Bắc Phạt” năm 1965
Nhà văn quân đội thứ hai mà tôi muốn đề cập đến là
Thế Uyên. Tôi biết Thế Uyên khi còn học tại Ban Mê Thuột. Khi đó ông
lưu lạc đến cao nguyên đất đỏ trong vai trò một giáo sư dạy môn Công dân Giáo dục và Triết trước khi bị động viên vào khoá
14 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, cùng một lượt với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
Thầy trò chỉ hơn nhau có 11 tuổi nhưng, đối với tôi,
thầy Dũng mang dáng dấp của một người từng trải với điếu thuốc lúc
nào cũng gắn trên môi. Thế Uyên, bút hiệu của Nguyễn Kim Dũng, sinh
năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông
là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam.
Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan của miền Nam, ông
bị đi tù cải tạo một thời gian, trước khi đến định cư tại Mỹ. Cách đây vài năm
ông bị “stroke” tê bại một nửa
người, phải ngồi trên xe lăn để di chuyển trong nhà. Tuy nhiên, bằng một nghị
lực phi thường, ông đã tập viết lại bằng tay trái, và đã viết bài cho các tạp
chí văn học hải ngoại.
Đoạn đường chiến binh – Thế Uyên
Thế Uyên là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng xoay quanh
người lính trong chiến tranh Việt Nam như Mười ngày phép của một người lính, Tiền đồn, Đoạn đường chiến binh... Trong một cuộc phỏng vấn
Thế Uyên cho biết:
“Nếu nghề dạy học đã
làm tôi hút thuốc lá từ lúc trẻ cho tới khi bị stroke, thì nghề làm lính làm
tôi thích bia rượu và thay đổi hẳn quan niệm và cách viết văn. Tôi từ bỏ (hay
bị từ bỏ, vì hoàn cảnh sống có tác động mạnh đến bút pháp) lối viết và đề tài
cũ, giã từ những mối tình trai gái lãng mạn trong thành phố an bình, chuyển
sang chiến tranh và các hệ luỵ của nó. Với tôi, quân đội và chiến tranh, như
một vết cắt, thành trước và sau, before and after, trước sex vẫn hiện diện, nhẹ
nhàng thôi, bây giờ sex nặng nề, tràn đầy… Như trong Tiền Đồn, Mười Ngày Phép
Của Một Người Lính, Nỗi Chết Không Rời...
Thủ bút và chân dung Thế Uyên (tranh của Tạ Tỵ)
Trong tác phẩm Tiền
đồn, Chị Ba, người nông dân tượng trưng cho người dân Việt Nam -ở cả
miền Nam lẫn miền Bắc - đã phải, được và bị làm tình với cả ba phe lâm chiến hồi đó: lính miền Bắc, lính
miền Nam và lính Mỹ. Đó là một đề tài sex rất mới lạ trong mảng
chiến tranh mà Thế Uyên đã đưa vào tiểu thuyết. Có người bảo giữa
tình dục và chiến tranh hoàn toàn không có gì liên quan đến nhau nhưng
Thế Uyên lại nghĩ khác:
“…Nhà văn Võ Phiến
(một người không đi lính và không ở tiền tuyến với súng đạn chông mìn) không
đồng ý với phân tích đó, cho rằng chiến tranh vẫn có đó, cho nhiều người, nhưng
không liên quan gì đến tăng hay giảm sex trong văn chương... Tôi tôn trọng ý
kiến nhưng không đồng ý với bậc đại trưởng lão này. Để tránh tranh cãi, tôi xin
nói lại thế này: Riêng đối với cá nhân tôi, đang khi và sau khi rời mặt trận,
tôi cảm thấy phải sử dụng tới sex, tới làm tình, nghĩa là sự sống, tạo sự sống,
mới diễn tả được chiến tranh, sự chết, huỷ diệt. Tôi cảm thấy thế thì phải
viết như thế, thật tự nhiên, không gò ép…
Ở Tiền đồn còn
có những chi tiết nhỏ nhoi mà những tác giả chưa từng sống trong tâm
trạng của người lính trực tiếp cầm súng không thể nào có được: “Mới chỉ thiếu đi một khoảnh khắc ánh trăng
... mình mệt rồi, chàng thì thào, phải kiếm đôi giày khác, đưa đôi này đi làm
fermeture. Một thằng bạn nào đã nói: Phải đi giày có fermeture mới đỡ căng
thẳng thần kinh... Hắn có lý đấy, chàng sợ nhất ban đêm bị đánh bất ngờ, xỏ
giày không kịp, cứ chân không tác chiến và chạy băng bờ bụi…”
Trong giai đoạn “chiến
tranh du kích”, người Sài Gòn dùng cụm từ “đắp mô” để chỉ những hoạt động của du kích MTGPMN tối tối
thường ra các trục lộ giao thông phá hoại đường xá. Trong Tiền Đồn, chuyện “đắp mô” của “những người anh em phía bên kia” lại được Thế Uyên diễn tả
bằng “ngôn ngữ của lính”:
“Hai tiếng nổ lớn kế
tiếp vang dội. Những viên đất nhỏ rơi lả tả trên đầu, quần áo. Vũ quay đầu lại
la lớn về phía toán đang dùng TNT phá ụ: "Còn mấy cái mả Hồ Chí Minh nữa
mới xong?". Một tiếng la trả lời: "Ba mả nữa!".
Người lính tiền đồn và gia đình
Dĩ nhiên trong lãnh vực báo chí Sài Gòn xưa tràn
ngập những tin tức liên quan đến lính, từ các mục Tin Chiến Sự, Tin Chiến
Trường đến các mục Hậu phương
& Tiền Tuyến, Ủy lạo binh sĩ,
v.v… Riêng quân đội cũng có cơ quan báo chí trực thuộc Phòng 5 Bộ tổng tham mưu với tờ Phụng Sự, ấn phẩm ra hàng tháng
trong suốt thời gian từ 1953 đến 1960. Phụng
Sự là tạp chí nghị luận, biên khảo và văn nghệ với sự góp mặt
của Toàn Phong (tác giả Đời Phi Công
đã đề cập đến ở phần trên), Hoàng Ngọc Liên, Hà Liên Tử, Nguyễn
Mạnh Côn, Uyên Thao, Phan Lạc Tuyên…
Báo Chiến Sĩ Cộng Hòa
(1959-1974) là cơ quan hợp nhất hai tờ Phụng
Sự và Quân Đội và tạp chí Chỉ Đạo xuất hiện từ tháng 10/1956
thuộc Ủy ban Chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng.
Ngoài những nhà văn vừa kể, những tờ báo lính còn xuất hiện bài
vở của các cây bút tiếng tăm trong và ngoài quân đội như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Thiệu Lâu, Toan Ánh,
Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên
Lộc, Trần Phong Giao, Dương Kiền, Duyên Anh, Hà Huyền Chi…
Nguyệt san Quân Đội
của Nha Chiến tranh Tâm lý xuất
hiện từ đầu năm 1957 đến 1960, do Trung-úy Tô Kiều Ngân làm chủ bút (hẳn bạn đọc còn nhớ tiếng
sáo của Tô Kiều Ngân trong chương trình Tao
Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn). Tiếp đến là những tờ Tiền Phong, Lý Tưởng, Mũ Đỏ, Lướt Sóng, Tinh Thần, Khởi Hành, và
các nhật báo Tiếng Dân, Dân Việt, Tiền Tuyến…
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xác định trong một bài diễn
văn tại trường Sĩ quan Võ bị Đà Lạt năm 1960: “Cuộc chiến tranh ta phải đương đầu không phải là một thứ chiến tranh
quân cụ, một thứ chiến tranh bấm nút, hay một thứ chiến tranh chỉ liên hệ đến
một số quân nhân mà thôi đâu. Thứ chiến tranh mà ta phải đối địch là thứ chiến
tranh cách mạng, một thứ chiến tranh lý tưởng liên hệ trực tiếp đến toàn dân,
và trong đó yếu tố tinh thần, yếu tố tin tưởng vào chế độ của mình là yếu tố
quyết định”.
Ngày Quân-lực VNCH
được chính thức chọn vào ngày 19/6/1965 trong thời Ðệ nhị Cộng hòa (dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, và
Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương,
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ) sau khi nền Đệ
nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Từ năm
1965 cho đến 1974 đều có các cuộc diễn binh trọng thể để kỷ niệm Ngày Quân Lực tại Sài Gòn. (Một
sự tình cờ ngẫu nhiên 19/6 lại trùng với ngày sinh của tác giả bài
viết này (19/6/1946)!
Diễn binh mừng Ngày Quân Lực 19/6
Khẩu hiệu chính của quân đội VNCH là “Danh dự – Trách nhiệm – Tổ quốc”,
mỗi binh chủng lại còn có khẩu hiệu riêng, chẳng hạn như Không quân
là “Tổ quốc, Không gian”, “Bảo quốc, Trấn không” hoặc Cảnh
sát thì có “Cảnh sát Quốc gia,
Phục vụ Đồng bào”… Các đơn vị quân đội VNCH ngoài tên gọi còn có
những “biệt danh” nghe rất kêu
nhưng cũng rất ngổ ngáo. Thủy quân
lục chiến có Quái Điểu
(tiểu đoàn 1), Trâu Điên (tiểu
đoàn 2), Sói Biển (tiểu đoàn 3),
Kình Ngư (tiểu đoàn 4), Hắc Long (tiểu đoàn 5), Thần Ưng (tiểu đoàn 6), Hùm Xám (tiểu đoàn 7), Ó Biển (tiểu đoàn 8), Mãnh Hổ (tiểu đoàn 9). Biệt động quân có biệt hiệu “Cọp ba đầu rằn”, Không quân có các
phi đoàn Thần Phong, Thần Tượng, Song Chùy, Phi Hổ, Hổ Cáp, Thiên Lôi, Hỏa Long, Phượng
Hoàng…
Quân lực VNCH có một số cơ sở đào tạo và huấn luyện.
Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt,
đào tạo những thanh niên tình nguyện trở thành sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bậc Thiếu úy. Khi mới
thành lập năm 1948, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo dài 9 tháng.
Năm 1957 tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là 2 năm.
Đến giữa thập niên 1960, khóa học của Trường Võ bị Đà Lạt là chương trình 3 năm, từ năm 1966 trở đi
lại tăng lên 4 năm. Học trình lúc đầu tương đương với trường cao đẳng. Sinh
viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường đại học vì coi như hoàn tất
bằng tú tài toàn phần (gồn Phần I,
lớp Đệ nhị và Phần II, lớp Đệ nhất). Đến năm 1966, sinh viên tốt
nghiệp Trường Võ Bị có văn bằng
tương đương với bằng cử nhân khoa học. Hai năm đầu sinh viên mang cấp bậc
trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với
cấp thiếu úy.
Khóa học bao gồm những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến,
kết hợp lý thuyết với thực hành. Theo truyền thống, để được gắn Alpha,
khóa sinh sau những tuần huấn nhục
phải leo lên ngọn Lang Biang để nhận phù hiệu trên đỉnh ngọn núi cao
nhất Đà Lạt.
Trường Võ bị Quốc
gia lấy Học viện West Point của
Hoa Kỳ làm mẫu mực. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống
nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong
đó 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 3/4 thuộc Lục quân.
Trường Võ bị Quốc gia
Năm 1965, quân lực VNCH tiếp nhận khái niệm và cơ cấu Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) khi đó
được áp dụng trong Quân đội Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Tổng cục CTCT
được tổ chức thành 5 cục bao gồm Cục
chính huấn, Cục tâm lý chiến,
Cục xã hội, Cục an ninh quân đội, Cục
quân tiếp vụ và một trường Ðại học
Chiến Tranh Chính Trị cũng đặt tại Đà Lạt. Tại đây, sinh viên phải
qua một chương trình huấn luyện 2 năm để trở thành Thiếu úy hiện dịch. Chương
trình học nhấn mạnh về khoa học xã hội và chính trị. Sinh viên phải học quân
sự hàng năm tại Trường Võ bị Quốc gia để
có thể chỉ huy một trung đội bộ binh với đầy đủ kiến thức về chiến thuật,
chiến lược. Bên cạnh đó là việc học những kiến thức chuyên môn tại
trường để trở thành sĩ quan chiến tranh chính trị.
Sinh viên Sĩ quan Đại học Chiến tranh Chính trị
Trường Bộ binh Thủ Đức
là nơi tập họp các thanh niên có bằng Tú tài Phần I trở lên (lớp
Đệ nhị) bị động viên vào quân
ngũ để được đào tạo trở thành sĩ
quan trừ bị và ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. Trong suốt thời
gian hoạt động 1953-1975, trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó
khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt là
những hạ sĩ quan được đặc cách
đi học lớp sĩ quan. “Thao trường đổ
mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Cư An Tư Nguy” (Muốn sống hòa bình phải nghĩ đến chiến
tranh) là những châm ngôn của Trường.
Trường Bộ binh Thủ Đức
là nơi tôi đã từng trải qua với vô vàn kỷ niệm, vui cũng như buồn
rất khó quên. Bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, leo dây tử thần, hít đất, thụt dầu, phạt dã chiến là những món “ăn chơi” không thể thiếu trong thời
gian “huấn nhục” của người chiến
binh. Vui nhất phải kể đến những lần về phép cuối tuần tại Sài Gòn
nếu không có lệnh “cấm trại 100%”.
Người ta thường gọi sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng
tôi là “lính con cá” vì trên cầu
vai không có lon mà chỉ có chữ Alpha
tựa như hình con cá! Phải đợi đến khi tốt nghiệp ra trường mới được
đeo lon Chuẩn úy (Omega). Trường
Bộ binh Thủ Đức có “khu bưu chính”
(KBC) mang số hiệu 4100, con số 4100 (bốn ngàn một trăm) được sinh viên
chúng tôi đọc trại thành “bốn người
một mâm”… chả là vì mỗi khi lên “nhà
bàn” ăn cơm thì cứ bốn người ngồi chung một carrée!
Sinh viên sĩ quan Thủ Đức
Tại Sài Gòn còn có Trung
tâm Huấn luyện Quang Trung chuyên đào tạo binh sĩ cho các đơn vị
tác chiến khắp “bốn vùng chiến
thuật”. Tôi cũng đã từng nếm mùi quân trường Quang Trung trước khi
được chuyển sang Thủ Đức ở giai đoạn 2. Quang Trung có món “chà láng”: những lúc rảnh rỗi tất
cả phải ra giao thông hào, dùng càmen bằng inox để chà đất cho thật
láng! Một việc làm “vô bổ” nhưng
lại có tác dụng khiến cho những thanh niên mới khoác áo lính phải
bận rộn, không còn thì giờ rảnh rỗi để nhớ nhà, nhớ cuộc đời dân
sự.
Trường Huấn luyện
Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân và Trường
Hạ sĩ quan (tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, thường được gọi là Trường Đồng Đế) tất cả đều ở Nha
Trang, “miền quê hương cát trắng”.
Trường Thiếu sinh quân đặt tại
Vũng Tàu, ưu tiên cho các con em tử sĩ. Còn một số trung tâm huấn
luyện chuyên môn cho các quân binh chủng như Pháo binh, Công binh, Quân
cụ, Quân khuyển, Quân y, Truyền tin… đặt tại các địa phương trên cả
nước.
Sẽ là điều bất công nếu không nói về Đoàn Nữ Quân Nhân, “những bông hồng trong bộ đồ lính”
hay nói một cách thi vị hơn: “Hoa lạc
giữa rừng gươm”. Trưởng Đoàn Nữ
Quân Nhân đầu tiên là nữ Đại tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn
Mẹo – Tổng trưởng Công chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Nữ quân nhân hiện diện tại các đơn vị quân đội với quân phục tác chiến ở tiền phương
hoặc với đồng phục màu xanh tại
các đơn vị tham mưu. Họ có mặt trong mọi binh chủng và ngành chuyên
môn trong quân lực và vào thời điểm “leo
thang chiến tranh”, quân số của Đoàn
Nữ Quân Nhân lên tới xấp xỉ 10.000 người.
Trường Nữ Quân Nhân
nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại (ngày nay là Lý Thường Kiệt), giữa Trường
đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường được thành lập từ giữa thập niên
1960 và đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hồ Thị Vẽ từ ngày đầu
tiên cho đến ngày cuối cùng, 30/4/1975.
Một nữ quân nhân xuất thân từ Trường Nữ Quân Nhân chưa có đủ chuyên môn để phục vụ các đơn vị,
nên thường phải trải qua một thời gian huấn luyện nữa, như ngành quân y, học
tiếp ở Trường Quân Y để trở thành một
y tá lành nghề. Tùy theo trình độ văn hóa, người nữ quân nhân có thể
phục vụ trong quân đội như “lính trơn”,
hạ sĩ quan hay sĩ quan.
Ngoài ra còn có Trường
Xã Hội Quân Đội thuộc Tổng cục Chiến
tranh Chính trị, tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô nằm trên
đường Lê Văn Duyệt (ngày nay là Cách mạng tháng 8). Trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo và huấn
luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại các trung tâm, trường học
ở khu gia binh thuộc quyền điều hành của quân đội. Trường Sinh ngữ Quân đội nơi tôi giảng dậy cũng có một nhà
trẻ dành cho con em của các giảng viên và do nữ quân nhân phụ trách.
Người có cấp bậc cao nhất trong Đoàn nữ quân nhân là Đại tá Trần Cẩm Hương, xuất thân từ
ngành Nữ trợ tá xã hội. Khi
Đại tá Cẩm Hương giải ngũ về hưu, Trung tá Lưu Thị Huỳnh Mai lên nắm
quyền Chỉ huy trưởng. Ngoài ra
còn có những nữ Trung Tá thâm niên quân vụ và cấp bậc như Nguyễn Thị Hằng,
Hồ Thị Vẽ, Nguyễn Thị Hạnh Nhơn. Cấp bậc Thiếu tá có khoảng trên dưới mười
người trong quân lực VNCH.
Đoàn Nữ Quân Nhân diễu hành trong Ngày Quân Lực
Lực lượng quân đội VNCH có đến 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn
nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục
chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù,
21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp, Lực lượng
Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị Pháo binh biệt lập và lực lượng Địa phương quân gồm 400 tiểu đoàn, nghĩa quân hơn 50.000 quân.
Lực lượng Không quân có quân số khoảng 60.000 người.
Chỉ huy trực tiếp là Bộ tư lệnh Không
quân với đầy đủ các cơ quan yểm trợ. Binh chủng bao gồm 5 Sư đoàn không quân tác chiến trong đó
có 20 Phi đoàn khu trục cơ (khoảng
550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5); 23 Phi
đoàn trực thăng (khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47); 8 Phi đoàn quan sát (khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17); 1 Sư đoàn vận tải (khoảng 150 phi cơ C7, C-47,
C-119 và C-130); 1 Không đoàn tân trang
chế tạo và 4 Phi đoàn Hỏa long
(trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship). Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314. Các phi công đều
được đào tạo chuyên môn tại Hoa Kỳ sau thời gian học quân sự và ngoại
ngữ ở trong nước.
Lực lượng Hải quân có quân số hơn 40.000 người, ngoài
các đơn vị yểm trợ hành chánh, huấn luyện và tiếp vận còn bao gồm các lực
lượng tác chiến: Hành quân lưu động sông
và Hành quân lưu động biển. Lực
lượng Hải quân bao gồm tuần dương hạm
(WHEC - White High Endurance Cuttert), hộ
tống hạm (PCE - Patrol Craft Escort), khu
trục hạm (DER - Destroyer Escort and Ricket), tuần duyên hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor), giang pháo hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Light), trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship
Support Large), dương vận hạm (LST -
Landing Ship Tank), hải vận hạm (LSM
- Landing Ship Medium) và giang vận hạm
(LCU - Landing Craft Utility).
Hải quân còn có các Lực
lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ và Liên
đoàn Người nhái. Tổng cộng được trang bị khoảng 1.500 tàu xuồng các loại,
trong đó có khoảng 700 tàu chiến trên sông và trên biển. Nổi tiếng nhất
trong số đó là Liên đoàn Người nhái
với hai tướng Dã Tượng và Yết Kiêu được tôn vinh là Thánh tổ của đơn
vị. “Người nhái” là những thanh
niên gan dạ, có đầy đủ sức khỏe để thực hiện những “hải vụ” bí mật trên sông và trên
biển.
Những con số vừa nêu rõ ràng là nói lên sức mạnh
hùng hậu của quân lực VNCH. Chỉ tiếc một điều, sức mạnh đó sẽ không
là gì một khi đồng minh “đem con bỏ
chợ” và hậu quả là ngày 30/4/1975.
Dưới đây là huy hiệu của các đơn vị quân lực VNCH do
Đỗ Văn Phúc vẽ lại (click vào hình để phóng to):
Huy hiệu 4 Quân đoàn và các Sư đoàn Bộ binh
Huy hiệu các quân binh chủng
Huy hiệu các lực lượng tổng trừ bị
Huy hiệu các quân trường
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire