Trong âm nhạc, mỗi một ca khúc là một câu chuyện. Mỗi một người sẽ
chọn cho mình một ca khúc để hát, để yêu, chỉ vì họ nhìn thấy câu chuyện
của chính họ trong ca khúc đó.
Thế nhưng, có những nhạc phẩm mà triệu triệu người cùng hát, cho cùng một mục đích. Và khi hát lên, thì cả triệu triệu người ấy đều có chung một nhịp đập từ trái tim. Đó là những bản hùng ca, những tác phẩm mà người sáng tác, người hát, và người nghe đều là một.
“Một cánh tay đưa lên
Hàng ngàn cánh tay đưa lên
Hàng vạn cánh tay đưa lên
Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính
Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng
Hoà bình phải trong vinh quang
Đền công lao bao máu xương hùng anh…” (Thề không phản bội quê hương)
Khi âm nhạc không còn là ngôn ngữ của riêng những bản tình ca, không
còn là giai điệu dành riêng để ca ngợi những cuộc tình lộng lẫy hoặc
khóc thương cho sự chia lìa đôi lứa, thì lúc đó, âm nhạc sẽ là một vũ
khí sắc bén thay cho vạn lời nói. Vũ khí đó có thể làm bừng lên hào khí
của cả một thế hệ.
Vũ khí đó có thể được lưu truyền và tiếp nối đến những đời sau, để những trái tim rực lửa với quê hương luôn sẵn sàng hát vang câu thề “thà chết chứ không hề lui, quyết không hề phản bội quê hương.”
Thưa quí vị, có phải chúng ta đang cảm thấy từng mạch máu trong cơ thể chúng ta đang nóng bừng lên cùng với những giai điệu hào hùng và rực lửa này không?
Có phải những ai nghe được lời ca mạnh mẽ, hùng hồn đầy nhiệt huyết của nhạc khúc này, thì chỉ cần nhắm mắt lại là có thể trở về ngay một thời trai trẻ của thế hệ hùng ca sử Việt?
Đó là thế hệ của Nguyễn Đức Quang, của Trầm Tử Thiêng, của Việt Thu, Nguyễn Tấn Lộc… những nhạc sĩ miền Nam Việt Nam thập niên 60.
Họ viết cho ai?
Họ viết cho điều gì?
“Cho đồng bào tôi ở khắp bốn phương trời
Hát những bài ca tôi đòi đã mòn hơi
Nghe nhau khóc thầm suốt đêm qua
Nghe bao nhiêu bạn khóc bên kia
Hoang mang cúi đầu chờ mong thượng đế
Cho đồng bào tôi thở nốt những hơi tàn
Buông thỏng bàn tay thua thiệt trước lầm than
Đêm đêm hết sạch vá vay thêm
Hay mang xe đèo kiếm cơm ăn
Thân trâu kéo cày bên lũ hưởng nhàn…” (Cho đồng bào tôi)
Cho một nhà sư bị nhốt giữa sân chùa, vì phân phát tình thương mà thành mang trọng tội; cho linh mục bớt thềm oan khiên vì đấu tranh cho niềm tin và tình yêu tôn giáo; cho những người dân tộc thiểu số, những người Tây Nguyên không còn bị cầm chân nơi núi rừng; cho tiếng nói người dân được lắng nghe; cho tự do; cho quyền được nói…
Cho người Việt Nam!
Cho đồng bào tôi!
Cách đây hơn 40 năm, người nhạc sĩ đầu đàn của phong trào du ca Việt Nam, Nguyễn Đức Quang đã viết ca khúc Cho đồng bào tôi để nói lên thân phận của người Việt Nam lúc bấy giờ. 40 năm sau đó, cố nhạc sĩ Việt Dzũng đã mượn giai điệu của ca khúc này để viết lời thứ hai, cho thân phận và cuộc sống của người Việt Nam bây giờ.
Họ là ai?
Bước ra từ ca khúc đó, họ có thể là một vị luật sư, một đức cha, một nhạc sĩ, một nhà doanh nghiệp, một thanh niên trẻ trở về từ xứ sở tự do, một cô gái mang học vị tiến sĩ…
Họ là những người đấu tranh cho tiếng nói của một dân tộc.
Họ là những người luôn ấp ủ một hoài bão chung cho cái đẹp vì hoà bình, vì tình yêu dành cho hai tiếng Việt Nam.
“Việt Nam ơi
Thời gian quá nửa đời người
Và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian…”(Việt Nam tôi đâu)
Tình yêu quê hương đất nước là gì mà từ lâu rồi, nhạc sĩ Giáp Văn Thạch ví von đơn giản chỉ là chùm khế ngọt, là tuổi thơ thả chơi trên đồng? Với Phạm Minh Tuấn là giọt đàn bầu thon thả? Với cố nhạc sĩ Phạm Duy là lời ru dịu dàng của mẹ?
Cũng tình yêu ấy, nhưng nhạc sĩ Việt Khang, thế hệ nhạc sĩ yêu nước tiếp nối, thì lại kêu lên xót xa như đứa trẻ ngơ ngác, thảng thốt hỏi tìm Mẹ, ngày Mẹ không còn nữa: “Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất?”
Câu hỏi được chính Việt Khang xót xa kêu lên khi đến quá nửa đời người, đã tỏ tường nhận ra “sau những ngày tàn lửa khói”, Mẹ Việt Nam của anh, của triệu người Việt Nam khác đang “đau từng cơn xót dạ nhìn đời, nhìn “người lầm than đói khổ nghèo nàn”, nhìn “kẻ quyền uy giàu sang dối gian”.
Triệu người Việt khác, ở khắp nơi trên thế giới ngày nay mỗi ngày nhìn về quê hương và tự hỏi:
Không kèn, không trống, không dàn nhạc với những nhạc cụ chuyên nghiệp, chỉ là những tiếng vỗ tay thay cho tiếng nhạc đệm, những gương mặt trẻ và ánh mắt sáng ngời vẫn hát vang những ca khúc của Nguyễn Đức Quang, của Việt Dzũng, của Trúc Hồ, của Việt Khang.
“Xin hỏi anh là ai?
Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?
Xin hỏi anh là ai?
Sao đánh tôi chẳng một chút nương tay?
Xin hỏi anh là ai?
Không cho tôi xuống đường để tỏ bày
Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!” (Anh là ai)
Họ hát say sưa như dàn đồng ca đang trình diễn trên sân khấu. Chỉ có khác rằng, sân khấu của họ là những nơi họ tuần hành đòi quyền sống, là thánh đường, là những buổi tiệc chúc phúc cho tân lang, tân nương. Đó là nơi mà những bài tình ca truyền thống phải nhường chỗ cho các nhạc phẩm mưu cầu tự do dân tộc và quyền cho người dân Việt.
Đó là những bản hùng ca triệu người hát.
“Trả lại đây cho nhân dân tôi
Quyền tự do quyền con người
Quyền được nhìn được nghe được nói…” (Trả lại cho dân)
Thế nhưng, có những nhạc phẩm mà triệu triệu người cùng hát, cho cùng một mục đích. Và khi hát lên, thì cả triệu triệu người ấy đều có chung một nhịp đập từ trái tim. Đó là những bản hùng ca, những tác phẩm mà người sáng tác, người hát, và người nghe đều là một.
“Một cánh tay đưa lên
Hàng ngàn cánh tay đưa lên
Hàng vạn cánh tay đưa lên
Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính
Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng
Hoà bình phải trong vinh quang
Đền công lao bao máu xương hùng anh…” (Thề không phản bội quê hương)
Vũ khí đó có thể được lưu truyền và tiếp nối đến những đời sau, để những trái tim rực lửa với quê hương luôn sẵn sàng hát vang câu thề “thà chết chứ không hề lui, quyết không hề phản bội quê hương.”
Thưa quí vị, có phải chúng ta đang cảm thấy từng mạch máu trong cơ thể chúng ta đang nóng bừng lên cùng với những giai điệu hào hùng và rực lửa này không?
Có phải những ai nghe được lời ca mạnh mẽ, hùng hồn đầy nhiệt huyết của nhạc khúc này, thì chỉ cần nhắm mắt lại là có thể trở về ngay một thời trai trẻ của thế hệ hùng ca sử Việt?
Đó là thế hệ của Nguyễn Đức Quang, của Trầm Tử Thiêng, của Việt Thu, Nguyễn Tấn Lộc… những nhạc sĩ miền Nam Việt Nam thập niên 60.
Họ viết cho ai?
Họ viết cho điều gì?
“Cho đồng bào tôi ở khắp bốn phương trời
Hát những bài ca tôi đòi đã mòn hơi
Nghe nhau khóc thầm suốt đêm qua
Nghe bao nhiêu bạn khóc bên kia
Hoang mang cúi đầu chờ mong thượng đế
Cho đồng bào tôi thở nốt những hơi tàn
Buông thỏng bàn tay thua thiệt trước lầm than
Đêm đêm hết sạch vá vay thêm
Hay mang xe đèo kiếm cơm ăn
Thân trâu kéo cày bên lũ hưởng nhàn…” (Cho đồng bào tôi)
Cho một nhà sư bị nhốt giữa sân chùa, vì phân phát tình thương mà thành mang trọng tội; cho linh mục bớt thềm oan khiên vì đấu tranh cho niềm tin và tình yêu tôn giáo; cho những người dân tộc thiểu số, những người Tây Nguyên không còn bị cầm chân nơi núi rừng; cho tiếng nói người dân được lắng nghe; cho tự do; cho quyền được nói…
Cho người Việt Nam!
Cho đồng bào tôi!
Cách đây hơn 40 năm, người nhạc sĩ đầu đàn của phong trào du ca Việt Nam, Nguyễn Đức Quang đã viết ca khúc Cho đồng bào tôi để nói lên thân phận của người Việt Nam lúc bấy giờ. 40 năm sau đó, cố nhạc sĩ Việt Dzũng đã mượn giai điệu của ca khúc này để viết lời thứ hai, cho thân phận và cuộc sống của người Việt Nam bây giờ.
Họ là ai?
Bước ra từ ca khúc đó, họ có thể là một vị luật sư, một đức cha, một nhạc sĩ, một nhà doanh nghiệp, một thanh niên trẻ trở về từ xứ sở tự do, một cô gái mang học vị tiến sĩ…
Họ là những người đấu tranh cho tiếng nói của một dân tộc.
Họ là những người luôn ấp ủ một hoài bão chung cho cái đẹp vì hoà bình, vì tình yêu dành cho hai tiếng Việt Nam.
“Việt Nam ơi
Thời gian quá nửa đời người
Và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian…”(Việt Nam tôi đâu)
Tình yêu quê hương đất nước là gì mà từ lâu rồi, nhạc sĩ Giáp Văn Thạch ví von đơn giản chỉ là chùm khế ngọt, là tuổi thơ thả chơi trên đồng? Với Phạm Minh Tuấn là giọt đàn bầu thon thả? Với cố nhạc sĩ Phạm Duy là lời ru dịu dàng của mẹ?
Cũng tình yêu ấy, nhưng nhạc sĩ Việt Khang, thế hệ nhạc sĩ yêu nước tiếp nối, thì lại kêu lên xót xa như đứa trẻ ngơ ngác, thảng thốt hỏi tìm Mẹ, ngày Mẹ không còn nữa: “Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất?”
Câu hỏi được chính Việt Khang xót xa kêu lên khi đến quá nửa đời người, đã tỏ tường nhận ra “sau những ngày tàn lửa khói”, Mẹ Việt Nam của anh, của triệu người Việt Nam khác đang “đau từng cơn xót dạ nhìn đời, nhìn “người lầm than đói khổ nghèo nàn”, nhìn “kẻ quyền uy giàu sang dối gian”.
Triệu người Việt khác, ở khắp nơi trên thế giới ngày nay mỗi ngày nhìn về quê hương và tự hỏi:
Không kèn, không trống, không dàn nhạc với những nhạc cụ chuyên nghiệp, chỉ là những tiếng vỗ tay thay cho tiếng nhạc đệm, những gương mặt trẻ và ánh mắt sáng ngời vẫn hát vang những ca khúc của Nguyễn Đức Quang, của Việt Dzũng, của Trúc Hồ, của Việt Khang.
“Xin hỏi anh là ai?
Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?
Xin hỏi anh là ai?
Sao đánh tôi chẳng một chút nương tay?
Xin hỏi anh là ai?
Không cho tôi xuống đường để tỏ bày
Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!” (Anh là ai)
Họ hát say sưa như dàn đồng ca đang trình diễn trên sân khấu. Chỉ có khác rằng, sân khấu của họ là những nơi họ tuần hành đòi quyền sống, là thánh đường, là những buổi tiệc chúc phúc cho tân lang, tân nương. Đó là nơi mà những bài tình ca truyền thống phải nhường chỗ cho các nhạc phẩm mưu cầu tự do dân tộc và quyền cho người dân Việt.
Đó là những bản hùng ca triệu người hát.
“Trả lại đây cho nhân dân tôi
Quyền tự do quyền con người
Quyền được nhìn được nghe được nói…” (Trả lại cho dân)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire