Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đúng là thiên tài trong việc kích động người dân miền Bắc căm thù đồng bào miền Nam tàn tệ như trong bài hát “Giải Phóng Miền Nam”: “Ôi xương tan máu rơi lòng hận thù ngất trời...” Miền Nam đang sống yên lành, đâu có động chạm gì đến miền Bắc, không gây thù chuốc oán với với miền Bắc, để họ căm thù, rồi với súng đạn của Nga, Tàu, họ kéo rốc vào miền Nam bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội? Tuyên truyền “Chống Mỹ cứu nước” là ngụy biện. Theo lệnh Cộng Sản quốc tế, từ năm 1959, Việt Cộng đã mở đường Trường Sơn 59 để xâm lăng miền Nam, rồi thành lập mặt trận bù nhìn “Giải Phóng Miền Nam” ngày 10 tháng 12 năm 1960 để đánh phá Việt Nam Cộng Hòa. Mãi đến năm 1964, quân Mỹ mới đổ bộ Ðà Nẵng để “be bờ” Cộng Sản. Chính Lê Duẫn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố nhiều lần rằng “Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”
Trong tù, những ông bà tù (miền Nam) bị buộc phải làm “thu hoạch”, kể
tội chính quyền miền Nam “phản dân hại nước, tay sai đế quốc Mỹ”, tự
mình buộc tội là “có nợ máu” với nhân dân, đáng tội chết, rồi phải hả
họng hát thật to “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng...” (?!) Không hát
thì “đi cùm” (biệt giam) rồi bỏ mạng. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết,
được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong
sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên
nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân
khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải
“lao động là vinh quang”.
Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi
rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội -
Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi
đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi
tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi
và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm
nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông
lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Khi
tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc
Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên
vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế
mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần
đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất
cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại
cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết
về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ
bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng
hi vọng gì từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng
xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.
Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Di Nguy, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với
cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán
trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu,
phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm
chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một
hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang
Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân
kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước
Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng,
nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói,
chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia
cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy.
Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên,
ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi
thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng
chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị
gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù
về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng
được” “Sao cũng được. Cám ơn” Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền
nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù,
nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có
thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề
đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái
túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai
gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện.
Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe
thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù,
người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi
trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm,
chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức,
dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai
mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều
về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù
rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại
thường có bộ đội (bảo vệ) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù.
Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có
thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày
giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt
trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn
chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã
bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông
lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt
nữa. Cứ thế mà vào cõi hư vô...
Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên,
nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn
“đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lõ mắt nhìn, bèn hỏi
“Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?” “Ðây đâu
phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi
xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói
chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một
chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà
tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người
mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc
lưỡi, thì thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp
sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính
dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn
dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu
chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh
đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào
quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như
người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh
pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con,
nhưng bây giờ cũng như không. Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò
chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh
chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để
chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ
giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản.
Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một
đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền
lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêït
Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không
có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng. Người lính
Cộng Hòa cay đắng nhận chân người đồng minh, vì quyền lợi nước Mỹ mà bỏ
rơi miền Nam một cách lạnh lùng, tàn nhẫn, trong khi đó, cả một khối
Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ
thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người lính miền bắc được học tập
để căm thù miền nam. Họ pháo kích vào người dân vô tội trên đường chạy
giặc. Những con đường đầy xác chết không toàn thây của đàn bà, trẻ con.
Ðại lộ kinh hoàng Quảng Trị - Huế, con đường chạy giặc khủng khiếp từ
cao nguyên về đồng bằng. Người lính Cộng Hòa đến đâu, dân chúng chạy
theo đến đó để được bảo vệ, cứu giúp. Trong giây phút hấp hối của miền
nam, người lính miền Nam chỉ còn biết lăn xả vào quân thù, đem thân mình
ra che chắn cho đồng bào chạy thoát. Ðó là dịp bằng vàng để Cộng Sản
miền bắc hoan hỉ bắn giết người miền Nam, người nào sống sót thì đưa đi
tù cải tạo, không có ngày về... Thủ tướng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý
“Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc,
bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể
biết được”. Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đọc trước quốc
hội Việt Cộng năm 1976 “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận
và các cam kết quốc tế” Rõ ràng Cộng Sản Việt Nam làm tay sai cho Cộng
Sản Quốc Tế, như một tên lính xung kích, tiến chiếm miền Nam, để giết
đồng bào mình. Cộng Sản nước nào thì giết dân nước đó. Hàng triệu, hàng
chục triệu.
Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., trình diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện ông thầy”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”. “Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?” “Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn” Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém” “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?” “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.
Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái li nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “vô” xong một li thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Chính họ, những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội, dẫn dắt đồng đội tiến, thoái mới là người quyết định chiến trường. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con oai hùng, hi sinh thân mình ngoài chiến trường để bảo vệ cho đồng bào được sống yên lành nơi hậu phương
Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng
cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại
những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở
nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đã
là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi
thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ
mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn
vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền,
nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình.
Ngoài đường đã vắng bóng người. Những con đường như ngủ say dưới ánh đèn
vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng
pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từ chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng
pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa
Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn
lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ
vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua
một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy
họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo
mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta
lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương,
đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống,
pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như
mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng
tôi mà khạc đạn, rồi những trái đạn đại bác, súng cối, hỏa tiễn đang
trút lên đầu. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống
một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát
chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc muốn ngộp
thở. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt
trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong
tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu
chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn
trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào
xuống gò má xương xẩu như những giòng nước, long lanh ánh chớp của pháo
nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh.
- “418, đây 314, xin tác xạ, hết”
Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.
Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.
- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết”
-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”
- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.
- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”
- “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết”.
- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...
Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo
binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại
đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm
cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn
sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một
một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những
người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu...
Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa
tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn
chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà
trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo
nữa, lần nầy ông ta chập ba bốn phong pháo vào với nhau nên pháo nổ càng
dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt
tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng
-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết”
-“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...
Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận
tấn công biển người của đối phương. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng,
thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh
đang căng lên hết mức. Vẫn giọng bình tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”
-“Xin 314 nhắc lại, hết”
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”
Giọng ông pháo binh khàn khàn, đẫm nước mắt.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”
-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng”
-“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...
Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.
Phạm Thành Châu
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire