Ca sĩ Quỳnh Giao sinh tại Vỹ Dạ của cố đô Huế năm 1946 với khuê danh
là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Ðoan Trang. Cô có giọng hát cao vút,
trong vắt như pha lê, có người gọi cô là “tiếng hát thủy tinh”.
Về cái tên Quỳnh Giao, trong một bài viết về nhạc sĩ Hoàng Trọng, chính ca sĩ Quỳnh Giao kể rằng ban đầu cô chọn nghệ danh là Quỳnh Dao khi được nhạc sĩ Hoàng Trọng mời cô hát thay cho mẹ (là danh ca Minh Trang), nhưng nhạc sĩ Hoàng Trọng cứ ghi thành Quỳnh Giao, làm cho cô cũng phải lấy tên mới với chữ G.
Về thân thế của ca sĩ Quỳnh Giao, nếu nói theo lối cổ điển thì cô thuộc “Hoàng phái”, với song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.
Thân phụ cô là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị.
Nhà Giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại học thời độc lập. Học Giả Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu Bảo khi dạy học Thái Tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ… Ngoài ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.
Ông nội của cụ Ưng Quả là Tuy Lý Vương, nổi tiếng là 1 trong 2 ông hoàng giỏi thơ nhất của triều Nguyễn (cùng với Tùng Thiện Vương) và được vua Tự Đức tặng cho câu thơ còn lưu truyền đến nay: Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường (thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương còn hay hơn thơ Đường).
Cụ Ưng Quả mất vào năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.
Cũng trong dòng họ, ca sĩ Quỳnh Giao là em họ của vị tướng nổi tiếng Nguyễn Khoa Nam (Nguyễn Khoa Nam gọi cụ Ưng Quả là cậu, em ruột của mẹ).
Ở tại Huế đến khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là Dương Thiệu Tước, một nhạc sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của danh sĩ – Thượng thư Dương Khuê.
Vừa cắp sách vào lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc (trường có thêm Ban Kịch Nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm của danh sư Ðỗ Thế Phiệt và về nhạc lý từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp.
Là nghệ sĩ dương cầm xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc Gia Âm Nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc Trưởng Ðỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Ðông Nam Á.
Do Minh Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài phát thanh. Từ đó, với nghệ danh Quỳnh Giao, cô vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này, trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh Ngọc,….
Trong lãnh vực phát thanh có đào tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp. Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu trong các ca sĩ ở đài phát thanh.
Năm 1975, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào tháng tư và được anh ruột đón về miền Ðông Hoa Kỳ, đó là Giáo Sư Nguyễn Phước Bửu Dương, khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp tiến sĩ tại Ðại Học Harvard.
Tại miền Ðông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia rồi đón nhận thân mẫu cùng các em để tị nạn qua Mỹ.
Về cái tên Quỳnh Giao, trong một bài viết về nhạc sĩ Hoàng Trọng, chính ca sĩ Quỳnh Giao kể rằng ban đầu cô chọn nghệ danh là Quỳnh Dao khi được nhạc sĩ Hoàng Trọng mời cô hát thay cho mẹ (là danh ca Minh Trang), nhưng nhạc sĩ Hoàng Trọng cứ ghi thành Quỳnh Giao, làm cho cô cũng phải lấy tên mới với chữ G.
Về thân thế của ca sĩ Quỳnh Giao, nếu nói theo lối cổ điển thì cô thuộc “Hoàng phái”, với song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.
Thân phụ cô là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh, tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị.
Nhà Giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các đại học thời độc lập. Học Giả Ưng Quả từng là Thái Tử Thiếu Bảo khi dạy học Thái Tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc Học tại Huế, giám đốc Nha Học Chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt Nam Pháp ngữ… Ngoài ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển.
Ông nội của cụ Ưng Quả là Tuy Lý Vương, nổi tiếng là 1 trong 2 ông hoàng giỏi thơ nhất của triều Nguyễn (cùng với Tùng Thiện Vương) và được vua Tự Đức tặng cho câu thơ còn lưu truyền đến nay: Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường (thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương còn hay hơn thơ Đường).
Cụ Ưng Quả mất vào năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.
Cũng trong dòng họ, ca sĩ Quỳnh Giao là em họ của vị tướng nổi tiếng Nguyễn Khoa Nam (Nguyễn Khoa Nam gọi cụ Ưng Quả là cậu, em ruột của mẹ).
Thân mẫu Quỳnh Giao là nghệ sĩ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị
Ngọc Trâm, là con gái của Thượng Thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của
Công Chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công Chúa. Công Chúa Mỹ
Lương được người đương thời tôn xưng là “Ngài Chúa Nhất” vì là chị cả
của vua Thành Thái. Bà Ngọc Trâm (ca sĩ Minh Trang) sinh năm 1921, tốt
nghiệp Tú Tài Pháp, làm biên tập viên và xướng ngôn viên song ngữ
Pháp-Việt trong lãnh vực phát thanh từ thời Pháp. Bà lấy nghệ danh Minh
Trang từ khi hát cho đài Pháp Á vào buổi bình minh của nền tân nhạc Việt
Nam.
Nghệ danh ấy là sự kết hợp tên của con trai và con gái của bà là hai
nghệ sỹ Bửu Minh và Ðoan Trang. Bửu Minh là danh thủ violon, ngồi ghế
concert master của dàn nhạc hòa tấu Stuttgart Symphony ở Ðức. Quỳnh Giao
còn một người anh khác tên là Bửu Dương. Danh ca Minh Trang đã tạ thế
vào Tháng Tám năm 2010 tại California Hoa Kỳ.Ở tại Huế đến khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sài Gòn sống với thân mẫu và kế phụ là Dương Thiệu Tước, một nhạc sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của danh sĩ – Thượng thư Dương Khuê.
Do huyết thống cả hai bên nội ngoại đều là những nhân vật lịch sử nổi
tiếng, và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu
về nhạc từ bé.
Khi danh ca Minh Trang lập ban hát thiếu nhi đầu tiên là Thiếu Sinh
Nhi Ðồng thì Ðoan Trang đã cùng anh trai tham dự, với tiếng hát thiếu
nhi của Mai Hương, Bích Chiêu, Bạch Tuyết, Kim Chi, Quốc Thắng và Tuấn
Ngọc… Sau năm 1953, khi hai kịch sĩ Kiều Hạnh và Phạm Ðình Sỹ (song thân
của Mai Hương) vào Nam thì Minh Trang nhường cặp nghệ sĩ này điều hành
ban hát Nhi Ðồng và đổi tên ra Ban Tuổi Xanh cho thích hợp với lứa tuổi
của ca sĩ thiếu nhi. Ðấy là lúc xuất hiện những tiếng hát như Hoàng
Oanh, Mai Hân, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu…Vừa cắp sách vào lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc (trường có thêm Ban Kịch Nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm của danh sư Ðỗ Thế Phiệt và về nhạc lý từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp.
Là nghệ sĩ dương cầm xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc Gia Âm Nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc Trưởng Ðỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Ðông Nam Á.
Do Minh Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài phát thanh. Từ đó, với nghệ danh Quỳnh Giao, cô vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Ðội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này, trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh Ngọc,….
Mai Hân – Mai Hương – Quỳnh Giao
Trong hoàn cảnh thân mẫu về hưu, kế phụ làm công chức, là một nhạc sĩ
tài hoa có nhiều đam mê, Quỳnh Giao đã có nhiều hỗ trợ cho gia đình và
được năm em cùng mẹ khác cha bên dòng họ Dương vô cùng yêu quý. Từ năm
1968, Quỳnh Giao còn dạy dương cầm tại gia về nhạc cổ điển Tây phương và
lập gia đình, có được một con gái là Dzương Ngọc Bảo Cơ sau này tốt
nghiệp cử nhân về Giáo Dục tại Hoa Kỳ.Trong lãnh vực phát thanh có đào tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp. Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu trong các ca sĩ ở đài phát thanh.
Năm 1975, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào tháng tư và được anh ruột đón về miền Ðông Hoa Kỳ, đó là Giáo Sư Nguyễn Phước Bửu Dương, khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp tiến sĩ tại Ðại Học Harvard.
Tại miền Ðông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia rồi đón nhận thân mẫu cùng các em để tị nạn qua Mỹ.
Quỳnh Giao Hát cho Kỷ Niệm 1&2
Băng Hát Cho Kỷ Niệm 2 thực hiện năm 1988
Kim Tước – Mai Hương – Quỳnh Giao
Sau khi tái giá với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa – sau này là nhà bình luận hợp tác với các đài phát thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ, Quỳnh Giao qua California sinh sống kể từ 1991. Trong môi trường sinh động và đông đảo người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động tân nhạc.
Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường, như Khúc Nguyệt Quỳnh (1992), Tiếng Chuông Chiều Thu (1996), Chiều Về Trên Sông (1997), Ngàn Thu Áo Tím (1998), Hành Trình Phạm Duy (1999), Hình Ảnh Một Buổi Chiều (2000), Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng (2001), Thơ Tình Phổ Nhạc (2002), Hoa Xuân (2003), Trở Về Thôn Cũ (2005) và Tình Khúc Phạm Duy (2006).
Nhờ sống gần Kim Tước và Mai Hương tại miền Nam California, ba nữ ca sĩ trình diễn với nhau nhiều hơn và khi hợp ca thì tự động chia bè rất ăn khớp với sự điêu luyện độc đáo. Từ đó, Ban tam ca Tiếng Tơ Ðồng Hải Ngoại ra đời để nhắc về ban nhạc Tiếng Tơ Ðồng nổi tiếng trước 75 của nhạc sĩ Hoàng Trọng khi ấy còn ở trong nước.
Ðáng kể hơn, là năm 1997 Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam, được phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình thuộc loại “nhạc sử” vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời phôi thai năm 1938 đến sau này.
Quỳnh Giao phân đoạn theo thời gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ. Nhờ nội dung phong phú và nhạc hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được BBC cho phát lại lần thứ hai.
Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé, gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.
Năm 1986, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 65 của nhạc sĩ Phạm Duy, từ miền Ðông, Quỳnh Giao đã có bài viết được đăng trên tờ Văn Học xuất bản tại California. Sau đó là một bài về nhạc sĩ Vũ Thành vừa tạ thế vào năm 1987. Ðược sự khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi ấy phụ trách tờ Văn Học, Quỳnh Giao đã viết nhiều hơn từ tùy bút đến truyện ngắn cho Văn Học và các tờ báo định kỳ khác, kể cả Thế Kỷ 21. Khởi đầu là đề tài âm nhạc, gần như một loại tự truyện về thế giới tân nhạc Việt Nam, sau này, Quỳnh Giao mở tầm viết và gây thích thú cho người đọc…
Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn. Nhờ vậy, độc giả cảm nhận được giá trị đích thực của các ca khúc.
Khi mở ra loại đề tài như điện ảnh, văn chương hay mỹ thuật, Quỳnh Giao còn cho thấy sự am hiểu rộng lớn và thấu đáo. Với văn phong nhẹ nhàng, cái nhìn tinh tế và cách nói khiêm nhường dí dỏm về mình, Quỳnh Giao lôi cuốn bạn đọc và dần dần có một thành phần bạn đọc riêng.
Những điều ấy trở thành rõ rệt khi Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo và nhật báo Người Việt trong mục “Tạp Ghi” với những bài định kỳ mỗi tuần. Tạp Ghi Quỳnh Giao là mục ăn khách trên Người Việt kể từ năm 2005 cho đến lúc cô qua đời năm 2014.
Trong khi đó, ở nhà, Quỳnh Giao tiếp tục việc dạy đàn và mở lớp luyện giọng.
Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao tưởng mình ho vì bị cảm lạnh. Nhưng sau một tháng chữa trị bình thường mà bệnh không dứt. Vào một đêm của đầu Tháng Ba khi bị mất giọng, Quỳnh Giao mới được xe cấp cứu đưa nhà thương và hôm sau thì nhận được tin sét đánh: Ung thư phổi. Ðiều này là bất ngờ vì trước đó không hề có triệu chứng gì, kể từ khi chiếu điện vì gãy cánh tay mặt.
Sau hơn bốn tháng giải quyết bằng hóa trị rồi xạ trị, Quỳnh Giao suy yếu dần về thể lực mà thần trí vẫn minh mẫn lạc quan. Cho tới khi phải thường xuyên dùng ống dưỡng khí và đối phó với nhiều biến chứng thì tình hình trở thành nguy kịch. Ðêm Thứ Ba rạng ngày Thứ Tư 23 Tháng Bảy, Quỳnh Giao lặng lẽ gỡ ống dưỡng khí và ra đi thanh thản trong giấc ngủ trước sự bàng hoàng ngơ ngác của chồng con.
Quỳnh Giao làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và những bài viết về nghệ thuật về mỹ thuật. Người ta thấy yêu đời và yêu người hơn khi nghe hay đọc Quỳnh Giao.
Theo Người Việt
https://nhacxua.vn/cuoc-doi-va-su-nghiep-cua-ca-si-quynh-giao-giong-hat-trong-vat-nhu-pha-le/
*
* *
* *
Quỳnh Giao, người nghệ sĩ chuyển tải cái đẹp của âm nhạc nghệ thuật đến cho chúng ta
Phượng Hoàng giới thiệu (SBS Úc Châu)
*
* *
* *
Nhạc Chủ Đề giới thiệu Quỳnh Giao -
Duy Trác thực hiện - VOVN Houston TX - 2004
*
* *
* *
Ca Sĩ Quỳnh Giao
- Thy Lan (Nụ Hồng Tạ Ơn)
*
* *
*
* *
Sống tại vùng chật hẹp với giang hồ sông nước là sự cách trở, chúng ta mơ chân trời xa lạ “như lũ chim quyết tung trời mây”… Và dù có gặp “biển gầm mênh mông không nơi ngừng cánh tránh gió táp”, chúng ta vẫn “thề quyết ra đi từ đây”. Nhạc sĩ Lâm Tuyền ghi lại cho tiềm thức chung cái giấc mơ đó trong bài Khúc Nhạc Ly Hương.
*
* *
* *
Ca sĩ Duy Trác:
Quỳnh Giao hát rõ ràng, thoải mái, có vẻ như cô không cần đến môt
sự cố gắng nào khi hát. Sự hòa nhập của Quỳnh Giao đối với những bài
mình hát là một sự hòa nhập được đắn đo hẳn hoi. Hình như khi hát Quỳnh
Giao còn muốn khẳng định sự tách rời giữa tiếng hát, bài hát và người
nghe, dù đó là một sự liên hệ hỗ tương. Cái khoảng cách cần thiết, sự
thật thì người ta cũng chẳng thể nào xóa bỏ được và chỉ khi nào người ta
ý thức rõ ràng như thế, việc thưởng thức mới thật sự nghiêm chỉnh.”
*
* *
* *
Tưởng nhớ Quỳnh Giao -
Thụy Vi (2014)
*
* *
* *
Tưởng nhớ Quỳnh Giao
- RadioSaigon-Houston-2014
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire