Tôi rời Hà Nội năm 54. Có nhiều bài hát
về Hà Nội khá hay, nhưng sau này tôi lại hay nghêu ngao hát bài “Nỗi
lòng người đi” của Anh Bằng, vì bài hát có nhiều điểm phù hợp với tôi,
và vì trong đó có tên cả hai thành phố Sài Gòn và Hà Nội. Hát lên hai
chữ Hà Nội để tưởng tượng rằng mình có một người yêu ở thành phố cũ. Còn
hát về Sài Gòn là nhớ cả một thời tuổi trẻ hoa mộng…
Tôi xa Hà Nội năm tôi mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
…Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
…Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi trong bùi ngùi…
Thành
phố Sài Gòn đã cho tôi hai kỷ niệm khó quên, kỷ niệm đầu tiên liên quan
đến nhà văn Mai Thảo. Những ngày mới di cư vào Nam, gia đình tôi cư ngụ
tại con hẻm gần nhà thờ Huyện Sĩ. Hai đầu con hẻm nối với hai đường lớn
là đường Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Anh bạn thân đã chỉ cho tôi một
người có bóng dáng rất văn nhân, đó là Mai Thảo. Ông thường xuất hiện
trong những buổi sáng, ở đầu hẻm trên con đường có nhà in, chuẩn bị cho
ra đời tác phẩm đầu tay – cuốn “Đêm giã từ Hà Nội”. Tôi đã phải lấy tiền
dành dụm nhỏ nhoi ra mua sách, nghĩ rằng nó sẽ là một kỷ niệm để đời.
Tôi đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, đọc nhiều lần, và đến nay vẫn còn nhớ mang máng câu: “Tôi nhìn xuống nước sông Hồng đục ngầu như máu mà Hà Nội đang ở dưới đó…”
Tôi cũng rời Hà nội như ông, cũng ngồi trong một chiếc xe vận tải lớn
chở những người di cư qua cầu Long Biên, trong buổi tối nửa đêm về sáng,
sang phi trường Gia Lâm để đáp máy bay vào Sài Gòn. Tờ mờ sáng, đèn
vàng trên cầu mờ nhạt, nhịp xe đều đều, gió sông thổi vào trong xe, mọi
người se lạnh, nhưng lúc đó tôi lại thấy háo hức được ra đi và nghĩ rằng
sẽ không quay lại thành phố này nữa. Tôi ngoái nhìn xuống dòng sông,
nước phù sa cuồn cuộn đục ngầu và có cùng một ý nghĩ như Mai Thảo.
Kỷ
niệm thứ hai của tôi là với dòng sông Sài Gòn. Trong những câu chuyện
tình, các nhà văn thường hay tả cảnh lần đầu hai người gặp nhau, và lần
cuối họ chia tay. Nếu khung cảnh đó lại là một bến sông thì câu chuyện
sẽ lãng mạn và lâm ly hơn nữa. Chuyện của tôi với sông Sài Gòn cũng gần
như thế. Tôi đến với Sài Gòn năm 54 và rời Việt Nam năm 75, cũng đều từ
bến sông Sài Gòn…
Hồi học lớp Nhì
trường Lý Thường Kiệt ở phố Sinh Từ, Hà Nội, tôi đã là một tay bơi có
hạng. Trung Thu 1946, thành phố tổ chức một buổi tập trận trên hồ Hoàn
Kiếm, giữa Nhi Đồng Cứu Quốc và Hướng Đạo. Hướng Đạo chiếm lĩnh Tháp
Rùa, có những thuyền nhỏ chèo đi phá các cứ điểm của Nhi Đồng quanh hồ.
Mỗi nhi đồng được lệnh chuẩn bị từng xâu vỏ bưởi cắt thành từng miếng
vuông đeo bên người làm võ khí. Mỗi khi thuyền của Hướng Đạo xông vào,
là hàng lọat vỏ bưởi được ném ra túi bụi để đẩy lui thuyền ra xa. Lần đó
tôi được tuyển vào Đội Yết Kiêu để bơi ra chiếm lại Tháp Rùa. Khoảng
cách bơi gần nhất là chỗ Khai Trí Tiến Đức. Sau tiếng hô của đội trưởng,
tôi nhoài người ra hồ, tưởng là gần nhưng sao bơi mãi mới tới nơi. Khi
đó thì toán đến trước đã đẩy lui được Hướng Đạo, và họ đã rút lui bằng
thuyền. Tôi vạch bờ cỏ, lên đảo và đi xung quanh tháp, sau đó vào trong
lòng tháp đứng nghỉ. Nhìn quanh không còn ai, đội của tôi xong nhiệm vụ
đang bơi vào bờ. Còn một mình, tôi chợt nhớ đến cụ rùa Hoàn Kiếm đã lấy
lại gươm thần của vua Lê Lợi mấy trăm năm trước. Phải chi cụ hiện lên
trong lúc này, nói với mình một tiếng thì thú vị biết bao!
Hồi
chiến tranh Việt – Pháp, gia đình tôi phiêu bạt hơn bốn năm trời trong
vùng hậu phương trung du Bắc Việt. Tôi đã bơi qua nhiều con sông đào
nhỏ, và có lần cùng bạn bơi qua ngang sông Đáy, gần ngả Vân Đình, để về
trại tạm cư vì không muốn lội bộ quá xa để đến bến đò ngang. Sau này về
Hà Nội, tôi lại thường bơi từ Petit Đồ Sơn ở Hồ Tây sang chùa Trấn Quốc,
sang đình Nghi Tàm. Tại hồ Quảng Bá, tôi đã bơi ngang qua hồ sang đến
gốc cây xoài phía bên kia.
Sau mùa hè
di cư năm 1954 ngắn ngủi và bận rộn, tôi trở lại trường Chu văn An được
đặt tạm tại khu nội trú của trường Petrus Ký, gặp lại được một số bạn
cũ, và nhớ những người bạn đã ở lại. Năm đó là năm Đệ Tam, năm được gọi
là năm ăn chơi không phải bận rộn thi cử. Các bạn tôi lúc đó ai cũng có
xe đạp, nên sau giờ học là rủ nhau đạp xe đi khám phá thành phố mới.
Cuối tuần chúng tôi đi xa hơn, mỗi người mang theo một ổ bánh mì thịt
nguội hay cá hộp sardine, nước thì đựng trong bi-đông nhỏ của nhà binh.
Cả bọn đạp xe qua cầu Bình Lợi đi thăm Thủ Đức, Lái Thiêu, suối Lồ Ồ. Có
lần đi đến tận Biên Hòa và còng lưng đạp xe leo dốc thăm ngôi chùa trên
núi Châu Thới.
Một hôm, đạp xe qua
Khánh Hội, rồi vòng vào Kho 5, cả bọn dựng xe và ra bến sông Sài Gòn.
Lúc đó thủy triều xuống, lòng sông thu lại, những đám cỏ dại bờ bên kia
trông cũng khá xa. Sông Sài Gòn hồi đó còn nhỏ hẹp, không như bây giờ đã
được khơi rộng ra nhiều lần. Một anh trong bọn nẩy ra ý cùng bơi qua
sông. Tôi nhìn xuống dòng sông, nước ngả mầu xám, lóng lánh những vết
dầu loang, có ý hơi ngần ngại, nhưng cũng theo bạn ùa nhau nhẩy xuống.
Bơi được một quãng, ra đến giữa dòng, không ngờ nước chẩy xiết, cả bọn
bảo nhau cố bơi ngang và cứ để mặc cho trôi theo dòng. Nước đã đẩy chúng
tôi quá xa, hơn cả hai, ba trăm thước chỗ định đến. Trước khi bơi trở
về, chúng tôi đã phải đi ngược lại gấp hai lần khoảng cách trên. Lên lại
được bến Kho 5, thật là hú vía, cả bọn thấy mình thật là liều lĩnh,
chắc là từ nay không anh nào còn dám đùa giỡn với con sông Sài Gòn này
nữa.
Sau này, mỗi kỳ hè về thăm gia
đình, tôi lại có dịp bơi qua sông Hương từ chỗ bến đò trước trường Đồng
Khánh với những người bạn ở Huế, nơi cha tôi đang làm việc. Nước sông
Hương ngày đó trong xanh, hiền hòa lững lờ trôi, khác hẳn những con sông
mà tôi đã lội qua.
Dòng sông cuối
cùng tôi đã bơi qua là con sông Dương Đông ở đảo Phú Quốc, khi tôi được
chuyển ra đó làm việc vào khoảng đầu thập niên 60. Tôi ở đó gần ba năm
không nghĩ đến chuyện xin đổi đi nơi khác. Nhiều lần, một mình tôi đã
bơi từ Dinh Cậu, nơi dòng sông chảy ra biển, sang bên kia cồn cát, nơi
cái xóm nhỏ mới thành lập, mà tôi đã đặt tên là xóm Bình Định cho những
người dân ngoài đó trốn chiến tranh đến đảo lập cư. Có lần tôi bơi ra
xa, đến tận cái cọc mốc để hướng dẫn thuyền vào cửa biển, khiến một lão
ông lo sợ tôi có thể bị cá mập tấn công.
Hơn
hai mươi năm sống với mưa nắng Sài Gòn, học hành, gây dựng tương lai,
tôi đã có những năm tháng thanh bình cũng như xáo trộn vì tình hình đất
nước. Cuối cùng, một quyết định đau lòng là phải bỏ quê hương khi người
từ miền Bắc xông vào “giải phóng” “đồng bào miền Nam nghèo đói” với xe
tăng và nón cối.
Buổi
chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, gia đình tôi và ông anh vợ là quân nhân
chạy về ngôi nhà đường Trần Quý Cáp của bà chị lớn. Tôi biết lòng anh
nóng như lửa vì vợ con đã rời khỏi Việt Nam từ mấy ngày hôm trước. Nay
phi trường Tân Sơn Nhất lại bị pháo kích. Chúng tôi gần như tuyệt vọng
nghĩ không tìm được đường nào thoát. Bỗng có điện thoại, anh nhấc lên
nghe, rồi buông một câu ngắn gọn: Ra ngay bến Bạch Đằng, đi tầu hải
quân! Chúng tôi ùa ra khỏi nhà, định cho các con lên xe của chúng tôi
chạy theo, nhưng anh bảo đi cùng một xe Jeep nhà binh với anh. Tới nơi,
một vòng kẽm gai đã chăng ngang đường tới tận bờ sông. Lính canh ngăn
chặn đám đông bên ngoài đang tràn vào. Anh cho xe đậu sát bờ sông, bên
kia là tượng Đức Trần Hưng Đạo. Chúng tôi xuống xe đến nơi có lính đứng
kiểm soát. Nhìn thấy anh đeo lon Trung Tá, họ cho vào, nhưng ngăn gia
đình chúng tôi lại vì là dân sự. Anh không nỡ bỏ đi, nói khó với mấy
người lính rằng tôi là một quân nhân biệt phái, nhưng họ nói không dám
vì sợ trái lệnh trên.
Không muốn nhùng
nhằng làm mất cơ hội cuối cùng đi tìm vợ con của anh, tôi bắt tay anh,
hối thúc anh đi may mắn, còn gia đình tôi có thể trở về. Đám đông ngoài
hàng rào cản ngày càng đông, bỗng hàng tràng súng nổ phía sau tượng Trần
Hưng Đạo, sau đó hàng tràng đạn bên trong hàng rào đáp lại, mọi người
chạy tán loạn. Một toán lính dù đang định tiến vào nhưng bị cản lại,
nhưng may là cả hai bên chỉ bắn chỉ thiên. Hai đứa con bé nhất của tôi
sợ hãi, khóc ầm ỹ. Chúng tôi nghĩ nếu còn ở đây dám bị đạn lạc và quyết
định lái xe về. Tôi đề máy. Xe không nổ. Đề lần thứ hai, thứ ba, xe cũng
không nổ.
Vì sợ rối lọan, lính vội
chăng thêm mấy lần vòng kẽm gai rộng ra ngay đằng sau chiếc xe. Không
còn biết tính sao, đi không được mà về cũng không xong. Chợt thấy anh
trung sĩ trong rào cản, giơ tay vẫy tôi, anh nói: “Ra xe, nổ máy, khi tôi mở hàng rào thật nhanh thì phóng xe vào”.
Tôi nghĩ xe đã không nổ máy, làm sao đây. Tuy vậy tôi vẫn vào xe, thầm
cầu nguyện Phật Trời và vặn chìa khóa, thì lạ thay, xe nổ máy, thế là
gia đình tôi thoát vào được! Nhưng cũng còn phải trải qua nhiều gian nan
vợ chồng tôi cùng năm đứa trẻ mới leo được lên chiếc chiến hạm cuối
cùng đang nằm ụ chờ sửa chữa.
Hai giờ
sáng, con tầu rời bến Ba-Xoong trên chở năm ngàn người. Khi tầu đi ngang
qua tượng Đức Trần Hưng Đạo, tôi thấy ngài vẫn đứng uy nghiêm, tay cầm
kiếm chỉ xuống dòng sông. Tôi chợt nhớ đến lời nguyền của ngài: “Nếu không thắng giặc Nguyên, ta sẽ không trở về con sông này nữa”.
Bất giác, tôi tự nói thầm nếu không tìm được Tự Do, chắc mình cũng
không thể trở lại được con sông này. Trông lên đường Nguyễn Huệ, con phố
không một bóng người, đèn đêm vàng bệch như màu da của người sắp chết.
Tượng Đức Trần Hưng Đạo (Ảnh: Nguyễn Tấn Lộc)
Sáng 30, tầu đến được Côn Sơn, nơi tập trung của hạm đội. Qua radio nghe
tiếng tướng lãnh đầu hàng như một lời báo tử. Nhìn lại phía sau, Sài
Gòn và cả miền Nam khuất dần cuối chân trời, như đang chìm sâu xuống
biển. Đi chẳng được bao lâu, tầu chết máy, nằm chơi vơi giữa biển khơi,
phải chờ một chiến hạm khác quay lại kéo. Bẩy ngày sau tàu mới tới được
Subic Bay, Phi Luật Tân. Trước khi cập bến, họ yêu cầu xóa bỏ hết các
dấu hiệu của Việt Nam. Tên tầu Thị Nại bị phủ một lớp sơn đen. Lá cờ
vàng trên cao từ từ hạ xuống. Mọi người trên tầu đứng lên hát bài quốc
ca, nước mắt nhạt nhòa. Tiếng hát theo gió tan trên biển như một bi hùng
ca của những người thất trận. Rồi chúng
tôi cũng vượt qua được Thái Bình Dương, đến được lục địa Mỹ Châu, trở
thành công dân Mỹ, thành người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi lại đi xuyên qua
lục địa đến tận chân tượng Nữ Thần Tự Do phía bên kia bờ Đại Tây Dương,
trèo vào trong lòng tượng và leo lên tới gần bó đuốc biểu tượng của Tự
Do để chắc chắn là mình đã làm trọn lời nguyện khi đi qua tượng Đức Trần
Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng năm xưa.
Chúng
tôi đã trở lại, về với Sài Gòn sau 20 năm và về lại với Hà Nội sau 40
năm. Chúng tôi còn trở lại thêm nhiều lần. Có năm chúng tôi hẹn các con
từ các tiểu bang về gặp nhau tại Hà Nội, rồi cùng đi dọc vào Sài Gòn. Từ
Hà Nội, chúng tôi đáp xe lửa vào Huế, để hoàn thành nốt cuộc hành trình
Xuyên Việt Bắc-Nam, mà trước đây tôi còn bỏ dở. Chúng tôi lấy xe bus
vào Hội An thăm khu phố cổ. Trên đường, xe ngừng trên đỉnh đèo Hải Vân,
tôi dẫn các con đến gần chỗ tháp cổ xây từ thời Minh Mạng, cùng nhìn
xuống biển Thái Bình bao la. Chúng tôi ra lại Đà Nẵng, từ đó lấy máy bay
đi Nha Trang, đáp xe bus đi Đà Lạt, rồi vào Sài Gòn.
Những
ngày ở Sài Gòn, tôi có dịp đưa các con đến lại chỗ mà một phép lạ đã
cứu chúng tôi khỏi cơn đại nạn. Nếu không thoát, tôi sẽ bị những “người
đồng bào” đưa đi cải tạo tù đầy điêu đứng. Và là con của “ngụy”, các con
tôi sẽ không tránh được cảnh sống khốn cùng. Dưới tượng Đức Trần Hưng
Đạo, tôi đã kể lại cho các con nghe chuyện buổi chiều ngày 29 tháng 4
năm 1975 và tôi cũng nhắc đến sự giúp đỡ của những người chúng tôi không
bao giờ quên, như anh trung sĩ bộ binh đã mở rào cản cho gia đình tôi,
Trung Úy Hải Quân Hùng đã giúp chở chúng tôi ra tận tầu, Trung Úy Người
Nhái Trịnh Công Hiển người em nuôi đạo đức đã theo giúp săn sóc con cái
chúng tôi suốt cuộc hành trình, Trung Tá Hạm Trưởng Nguyễn Văn Tánh,
Trung Tá Hải Quân Phan Lạc Tiếp, thủy thủ đoàn tân lập và toán Người
Nhái của chiến hạm Thị Nại 502 đã cùng điều động con tầu hư hỏng đến bến
tự do, và trên hết, anh nhà tôi là Trung Tá Đặng Bá Cảnh đã mở đường
cho chúng tôi khi tình thế trở nên tuyệt vọng nhất. Xin Thượng Đế phù hộ
cho họ.
Mấy năm trước, con gái út tôi
lập gia đình. Lớn lên trong xã hội Mỹ, con tôi đã làm chúng tôi ngạc
nhiên và cảm động là cô quyết định về Sài Gòn làm lễ cưới. Con gái và rể
tương lai chúng tôi là bạn học, nay cả hai cùng làm việc cho Ngân Hàng
Thế Giới, hai người có cơ hội đi khắp đó đây, nhưng lại muốn trở về Sài
Gòn để đánh dấu sự kết hợp quan trọng của hai cuộc đời. Ngoài một số họ
hàng từ Mỹ, Anh và Việt Nam, hầu hết khách mời là bạn của cô dâu chú rể
đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Nhìn họ, ta có cảm tưởng thế giới của
chúng ta đã được thu nhỏ lại.
Lễ gia
tiên được cử hành trên một chiếc thuyền rồng, lộng lẫy sơn hai màu vàng
và đỏ. Rồng biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Con thuyền đưa khách từ
bến Nhà Rồng đến Bình Quới Resort dự tiệc. Hôm đó, trong lời chào mừng
quan khách, tôi có dịp nhắc lại chuyện xưa: “Chúng ta đang đi trên
sông Sài Gòn, dòng sông lịch sử này đã nhắc lại cho gia đình tôi những
kỷ niệm không thể quên. Nhiều năm trước, trong đêm cuối cùng trước khi
Sài Gòn thất thủ, chúng tôi cũng thoát được từ một bến không xa nơi này,
trên một chiến hạm hư hỏng cũng trôi trên con sông này. Chúng tôi đã
phải rời bỏ quê hương, không biết nơi đến và cũng không biết tương lai
ra sao…” Nhiều bạn ngoại quốc đã lau nước mắt và lên chia sẻ với cô
dâu về sự bất ngờ họ được biết về một khúc quanh lịch sử của chiến
tranh Việt Nam và lý do tại sao gia đình cô lại sống nơi hải ngoại.
Sài
Gòn đã đổi mới rất nhanh. Đi xa quá lâu, về lần nào cũng thấy xa lạ, ô
nhiễm và bất an. Lần vừa rồi, chúng tôi ở lại Sài Gòn hơn một tháng.
Trước ngày trở lại Mỹ, hai vợ chồng tôi đi dọc theo đường Tự Do, sang
đường ra bến Bạch Đằng, tôi nhớ lại hơn nửa thế kỷ trước, gần tám trăm
ngàn đồng bào từ miền Bắc đã cặp bến này đi tìm tự do, nay không còn một
dấu tích nào để lại. Cũng tại nơi này 36 năm trước đây, gia đình tôi đã
bỏ lại chiếc xe bên đường và nhờ sự tình cờ như một phép lạ mà đến được
miền đất hứa. Chúng tôi đi ngược lên, đến dưới tượng Đức Trần Hưng Đạo,
cố tìm lại chỗ của chiếc xe năm xưa. Ở đây họ đã xây một công viên nhỏ.
Lúc quay về chỗ ngã ba để tìm cách sang đường Tự Do thì đúng vào giờ
tan sở, xe chạy hai chiều không ngớt. Đường thì rộng, không đèn giao
thông, cũng không có lằn sơn dành cho bộ hành, chần chừ mãi không dám
qua. Chợt nghe thấy tiếng chuyện trò vui vẻ của mấy cô gái, chúng tôi
quay lại thì các cô tươi cười: “Các bác theo chúng cháu” và
không đợi trả lời, hai cô đã nắm cánh tay của chúng tôi dẫn qua đường.
Sang đến nơi chưa kịp nghe lời cám ơn, các cô đã vội rảo bước ríu rít
đi. Tôi bỗng nhiên thấy trong cái xa lạ, trong sự bất an, trong cái vô
cảm của cuộc sống hối hả, vẫn còn cái thiện căn bản trong sáng của những
người trẻ Việt Nam.
Nguyễn Công Khanhhttps://trithucvn.net/van-hoa/song-sai-gon-tuong-nhu-dong-song-khong-tro-lai.html
*
* *
* *
ký ức người Sài Gòn. Mời độc giả cùng ngắm lại hình ảnh dòng sông xưa.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire