Theo tin báo chí trong nước, vào Tháng Ba năm nay, Cục Nghệ Thuật
Biểu Diễn thuộc Bộ Văn Hóa Thông Tin-Du Lịch vừa quyết định “tạm thời
dừng lưu hành năm ca khúc sáng tác trước năm 1975.” Đây là những nhạc
phẩm đã được cấp phép trước đó, bây giờ lại có lệnh tạm dừng phổ biến.
Trong thời buổi này người ta khó để đi tìm một định nghĩa cho nhạc vàng, đã được nhìn lệch lạc qua lăng kính chính trị, nhất là sau năm 1975, sự thừa thắng và kiêu ngạo đã làm cho người Cộng Sản có cái nhìn ác độc thiếu công bình cho nền văn học tự do trước thời kháng chiến hay sau khi đất nước chia đôi, ở miền Nam. Nhạc vàng được những nhà cầm quyền miền Bắc gán ghép cho là thứ âm nhạc bệnh hoạn, sầu não, bi luỵ thiếu “chiến đấu tính.” Có người còn hồ đồ cho đó là thứ nhạc sến. Cường điệu thêm theo cách nói của Nguyễn Hữu Liêm là “cái âm điệu tủi thân bi đát,” hay là một loại “nước dừa tang thương bằng âm nhạc.”
Nhưng có lẽ chính xác hơn hết, chúng ta phải tìm đến định nghĩa của nhạc vàng của Jason Gibbs trên trang Talawas: “Âm nhạc Tây phương phi cộng sản cũng như âm nhạc thịnh hành ở đó trở thành một đối tượng quan tâm lo ngại trong chính sách văn hoá của những người cộng sản. Nhạc vàng – cái tên đặt cho loại nhạc không chính thống này – bị “gác” và cấm cho đến cuối những năm 1980…”
Hồng Phúc, Mai Ly & Huy Phương - DaiphatthanhVietNam
Trong thời buổi này người ta khó để đi tìm một định nghĩa cho nhạc vàng, đã được nhìn lệch lạc qua lăng kính chính trị, nhất là sau năm 1975, sự thừa thắng và kiêu ngạo đã làm cho người Cộng Sản có cái nhìn ác độc thiếu công bình cho nền văn học tự do trước thời kháng chiến hay sau khi đất nước chia đôi, ở miền Nam. Nhạc vàng được những nhà cầm quyền miền Bắc gán ghép cho là thứ âm nhạc bệnh hoạn, sầu não, bi luỵ thiếu “chiến đấu tính.” Có người còn hồ đồ cho đó là thứ nhạc sến. Cường điệu thêm theo cách nói của Nguyễn Hữu Liêm là “cái âm điệu tủi thân bi đát,” hay là một loại “nước dừa tang thương bằng âm nhạc.”
Nhưng có lẽ chính xác hơn hết, chúng ta phải tìm đến định nghĩa của nhạc vàng của Jason Gibbs trên trang Talawas: “Âm nhạc Tây phương phi cộng sản cũng như âm nhạc thịnh hành ở đó trở thành một đối tượng quan tâm lo ngại trong chính sách văn hoá của những người cộng sản. Nhạc vàng – cái tên đặt cho loại nhạc không chính thống này – bị “gác” và cấm cho đến cuối những năm 1980…”
Chuyện Đời thường-bóng ma Nhạc Vàng
Hồng Phúc, Mai Ly & Huy Phương - DaiphatthanhVietNam
Sau khi đất nước chia đôi năm 1954, ở miền Bắc văn học được định
nghĩa như là một công cụ cho chính trị, ca nhạc, văn sĩ được xem như là
những cán bộ văn nghệ của chế độ, mệnh danh là “văn công.” Âm nhạc được
mang một màu đỏ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ chiến
tranh, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu
lý tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, thể hiện tình yêu
quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng, nhưng không rời xa
việc kết nối với lãnh tụ, đảng và chính sách.
Trong suốt 30 năm “kháng chiến đã thành công,” các nhạc sĩ lãng mạn
lừng lẫy một thời không di cư vào Nam được, chấp nhận lột xác, kiểm thảo
về quá khứ sai lầm, lên án các tác phẩm của mình để sống còn. Sau phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm nhạc tiền chiến bị cấm hẳn. Loại nhạc được lưu
hành tại miền Bắc trong thời kỳ 1954-1975, được gọi là nhạc đỏ. Suốt 30
năm, miền Bắc không có nổi một bản nhạc ca tụng tình mẹ, cho tình yêu,
nếu trước đó chưa chịu chia phần cho đảng! (*)
Ở Hà Nội năm 1971, một vụ án liên quan đến “nhạc vàng” được xem là
“nghiêm trọng,” đó là vụ án “Toán Xồm – Lộc Vàng,” miền Bắc kết án những
người này chủ trương phổ biến “văn nghệ đồi truỵ,” dùng các bản nhạc
vàng bi quan, sầu thảm, lả lướt, lãng mạn để truyền bá lôi, kéo thanh
niên…” Kết quả là hai người đàn ông, một chịu bản án một người 10 năm,
một 15 năm tù. Một người còn sống, một người đã chết ngoài đường phố sau
khi mãn hạn tù đày.
Tại miền Bắc, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với sự lãnh đạo của đảng Lao
Động Việt Nam, tân nhạc cũng như điện ảnh, có nhiệm vụ chính là cổ vũ
chiến đấu. Dòng nhạc “cách mạng” chiếm vị trí độc tôn, các nhạc sĩ lãng
mạn hầu như không còn sáng tác.
Với đường lối cộng sản, ảnh hưởng âm nhạc của Trung Quốc và Nga ngày
càng sâu đậm theo tỷ số ngày càng cao của các nhà soạn nhạc được gởi đi
du học ở các nước cộng sản. Sau Tháng Tư, 1975, dân miền Nam, lần đầu
tiên được nghe loại nhạc mang âm hưởng Trung Quốc, líu lo, được các
giọng tenor và soprano hát như “Cô Gái Vót Chông,” “Bóng Cây Kơ-Nia,”
“Tiếng Đàn Ta Lư…”
Ở miền Bắc người ta đã nghe thấy hàng chục bản nhạc ca tụng lãnh tụ
Hồ Chí Minh và “đảng Cộng Sản quang vinh” ra rả trên đài phát thanh và
truyền hình suốt ngày. Các nhạc sĩ mẫn cán dưới thời lãnh tụ Tố Hữu ra
sức bình sinh, viết một hai bài dâng bác và đảng để biểu diễn lòng trung
thành tuyệt đối, được lòng tin cậy của đảng, lại có thêm chút tem
phiếu! Nếu Tố Hữu có 50 bài thơ viết về bác và đảng thì đàn em cũng phải
có một hai bản nhạc ca tụng lãnh tụ và “đảng quang vinh.” Đó là “Việt
Bắc nhớ Bác Hồ” (Phạm Tuyên), “Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người ” (Trần
Kiết Tường), “Đôi Dép Bác ” (Văn An), ” Nhớ Ơn Hồ Chí Minh” (Tô Vũ),
“Lời Ca Dâng Bác ” (Trọng Loan), “Trồng Cây Lại Nhớ Đến Người” (Đỗ
Nhuận), v.v… hay “Chào Mừng Đảng Lao Động Việt Nam” (Đỗ Minh), “Dưới Cờ
Đảng Vẻ Vang” (Lưu Hữu Phước), “Vững Bước Dưới Cờ Đảng” (Phạm Đình Sáu),
“Tiến Bước Dưới Cờ Đảng” (Văn Ký), “Dâng Đảng Quang Vinh” (La Thăng),
“Từ Khi Có Đảng” (Nguyễn Xuân Khoát)…
Trong không khí ấy, người dân miền Bắc, nhất là lớp tuổi đi theo
kháng chiến khi đã có trí khôn, bắt đầu tiếc nuối thời tiền chiến mơ
mộng và thèm khát nói lên tiếng nói chân thật của trái tim. Người dân
miền Bắc, qua những chiến lợi phẩm mà con cháu họ mang về từ miền Nam
với những cuốn băng và cái máy cassette của “bọn đế quốc,” những bản
nhạc, mới nghe qua, khá lạ lùng về lời ca, nhạc điệu, nhưng thật sự là
gần gũi làm rung động tâm hồn của họ. Đó chính là loại nhạc vàng vẫn
thường nghe nhà nước tuyên truyền là bệnh hoạn và vô cùng độc hại!
Người ta kể chuyện sau khi vào thăm Sài Gòn sau năm 1975, món quà quý
nhất mà nhà thơ Huy Cận mang về Bắc là băng nhạc cassette thu thanh
băng nhạc “Ngậm Ngùi” thơ của ông, do Phạm Duy phổ nhạc, với tiếng hát
của nhiều ca sĩ miền Nam. “Ngậm Ngùi” là bài thơ trước chiến tranh, mà
chế độ miền Bắc đã khai tử, người lớn không ai còn nhớ, và trẻ con chưa
hề biết!
Cũng không phải ngẫu nhiên mà những năm gần đây, nhiều ca sĩ hải
ngoại đã thay phiên nhau về nước hát nhạc vàng, và đã được người trong
nước đón nhận khá nồng nhiệt. Chương trình của những ca sĩ hải ngoại như
Tuấn Vũ, Thanh Tuyền, Giao Linh, Khánh Hà, Phi Nhung, Hương Lan, Ý Lan…
tổ chức với mật độ dày đặc và thường xuyên hơn ở Hà Nội và Sài Gòn.
Thái độ thích nghe loại nhạc này của trong nước thu hút nhiều ca sĩ hải
ngoại về hát. Nhiều công ty ca nhạc trong nước cũng phấn khởi với những
chương trình ca nhạc bán hết vé của các ca sĩ hải ngoại. Đó là nỗi khao
khát được nghe loại nhạc vàng “bệnh hoạn” “độc địa” của một thời để giải
toả cái khộng khí u uất giam cầm của những loại nhạc ca tụng lãnh tụ và
đảng.
Có bao nhiêu bài hát được ca sĩ hải ngoại về hát ở trên sân khấu
trong nước, đã được “cho phép” hay “bị cấm,” khó ai có thể kiểm chứng
được, nó tuỳ lúc, tuỳ thời, tuỳ người và tuỳ…tiện. Vì “tuỳ tiện” nên
nhiều ca khúc bị cấm mà người ta không hiểu vì sao bị cấm. Mỗi lần mùa
Xuân tới, bản “Ly Rượu Mừng” dân chúng hát nát ra mấy chục năm nay để
thay cho loại nhạc “mừng Xuân, mừng Đảng,” mà cho tới nay chính phủ mới
cho phép dùng. Nhưng hãy coi chừng, một ngày kia, chính quyền nhức đầu
sổ mũi lại cấm hát thì biết thếnào mà lần! Để ăn chắc, mỗi lần đang hát
thì bị công an lên sân khấu lập biên bản, từ nay cứ làm đơn xin duyệt,
mỗi lần xin duyệt tốn thêm chút cà phê, thuốc lá; nhưng đã có cái khuôn
dấu rồi, vẫn chưa ăn chắc, vì chính quyền, tổ chức, vốn ba đầu sáu tay,
rừng nào cọp nấy! Cũng có cô ca sĩ và bài hát được xử dụng ở Hà Nội
những không được trình diễn ở Huế.
Chính quyền Cộng Sản lại là những anh nhát gan, sợ ma. Thôi thì vì
trào lưu thanh niên trong nước muốn mặc quân phục VNCH, hát nhạc thời
chiến trước năm 1975, thì ta cấm hẳn nhạc lính đi, nhưng vì sao cứ nói
đến mùa Thu là ngại người ta nhớ đến ngày cướp chính quyền. Mùa thu chết
của Phạm Duy lấy ý từ bài thơ của nhà thơ Pháp Apollinaire (1880-1918)
thì theo Nguyễn Lưu, bài này là “đỉnh cao chống Cộng của Phạm Duy, với
một bút pháp sâu cay, đểu giả…”
Ngay như những công dân chính thức CHXHCN Việt Nam là Phạm Duy và
Trịnh Công Sơn, người đã được nhà nước Cộng Sản vinh danh, đặt tên
đường, một số nhạc của họ giờ này vẫn chưa được phép phổ biến, nghĩa là
đang còn bị xếp loại cấm hát. Theo BBC, mặc dầu Phạm Duy đã trở về Việt
Nam định cư từ năm 2005, tuy nhiên, cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài
hát của ông được phép biểu diễn ở trong nước. Với Trịnh Công Sơn, bài
“Nhớ Mùa Thu Hà Nội,” cũng bị cấm hai năm, những người Cộng Sản “chẻ sợi
tóc làm tư” để tìm những gì mà họ cho là ẩn ý trong từng lời hát!
Nhạc vàng đi ngược lại đường lối, chủ trương của đảng, ru ngủ làm mất
sức sản xuất, lao động và học tập của dân chúng, hay là chỉ vì nó dễ
ghét, vì lòng ganh tỵ vì được quá nhiều người thích.
Lấy kính hiển vi soi rọi vào năm bài hát vừa bị cấm hay mới bị cấm
trở lại, thấy cũng không có lính, không có cờ, không có mùa Thu mà vẫn
bị cấm, nên trên facebook có người mới hát nhại rằng: “Có đường không
cho đi, cấm đi người vẫn đi, hỏi tại sao cấm đi?”
Chuyện buồn cười hơn là cả một bài hát vớ vẩn, “Đừng Gọi Anh Bằng
Chú” của Diên An, cũng bị lên danh sách cấm. Thì ra đây là chuyện thù
vặt, bài này nguyên là của nhạc sĩ Anh Thy, một quân nhân hải quân VNCH,
tác giả những bài hát lính như “Hải Quân Việt Nam,” “Hải Đăng,” “Hoa
Biển,” “Lính Mà Em,” “Tâm Tình Người Lính Thuỷ…” Có lẽ vì gặp khó khăn
với chế độ trong nước, nên ca khúc này được đổi tên tác giả là Diên An.
Cái tồi của trong nước là không dám nói thẳng vì Anh Thy là lính VNCH
nên bản nhạc phải cấm. Anh đã là lính VNCH thì dù anh có viết những bài
không dính líu gì đến lính, tôi vẫn cấm anh! Đó là đường lối chủ trương
“hoà hợp hoà giải minh bạch” của đảng!
Có những thứ đã chết mà người ta tôn vinh, xây lăng cho nó, nó vẫn
chết, nhưng có những thứ người ta muốn chôn vùi, huỷ hoại, nó vẫn đội mồ
sống dậy.
(*)Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ.
Anh dành riêng cho đảng phần nhiều.
Phần cho thơ và phần để em yêu… (Tố Hữu)*
*
* *
* *
Chuyện Đời Thường-Những cánh bướm Việt Nam (Huy Phương)
- daiphatthanhvietnam
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire