Nguyễn Viết Kim chuyển ngữ
(Dịch giả Nguyễn Viết Kim đã theo học, tốt nghiệp, làm việc tại đại học Stuttgart (Universitaet Stuttgart), Đức Quốc, 1966-1978).
Nguyễn Viết Kim chuyển ngữ
(Dịch giả Nguyễn Viết Kim đã theo học, tốt nghiệp, làm việc tại đại học Stuttgart (Universitaet Stuttgart), Đức Quốc, 1966-1978).
Bài chuyển ngữ về cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Thiệu vào năm
1979. Đây là cuộc phỏng vấn duy nhất được biết đến trên một tờ báo có
kích thước quốc tế; cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cầm
quyền từ năm 1967 đến 1975 trong Đệ Nhị Cộng Hoà, hiệp định hòa bình
được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Ba Lê, Pháp Quốc, hai ký giả Von Johannes K. Engel , Heinz P. Lohfeldt là cộng sự viên cao cấp của tuần báo Der Spiegel với trụ sở chính tại thành phố Hamburg, Đức Quốc .
Tờ báo cho biết ông Thiệu đã xem xét lại cẩn thận từng trang
và đặt điều kiện chỉ được phép công bố sau khi có sự thoả thuận của hai
bên. Cuộc phỏng vấn được thực hiện tại Luân Đôn, Anh Quốc.
Nguyên tác đăng trong số 50 năm
1979 với tựa đề - Ông Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: Người Mỹ đã phản bội
chúng tôi - Hình bìa của tuần báo số 50 năm 1979 này là chân dung quốc
vương của Ba Tư với dòng chữ: tương lai của ông Schah đi về đâu.
Ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống ngày 22 tháng 4 năm 1975, một tuần sau vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 quân đội cộng sản tiến vào Saigon.
Ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống ngày 22 tháng 4 năm 1975, một tuần sau vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 quân đội cộng sản tiến vào Saigon.
Ông đã rời khỏi Saigon sau khi từ chức, lưu lại một thời gian ngắn
tại Đài Bắc, rồi qua Luân Đôn, ông thọ 78 tuổi, mất năm 2001 tại Boston,
Hoa Kỳ.
Der Spiegel là một tuần báo lớn nhất Âu Châu với số phát hành
gần 1 triệu số mỗi tuần, Đức Ngữ là ngôn ngữ được dùng nhiều nhất tại
Âu Châu, Anh Ngữ thông dụng, Pháp Ngữ và Tây Ban Nha Ngữ được ưa chuộng
SPIEGEL ONLINE, Hamburg, Germany
Der Spiegel: Thưa
ông, trong cuốn hồi ký ông Henry Kissinger cho biết là trong khoảng thời
gian từ 1968 đến 1973, Hoa Kỳ cố gắng hòa đàm để chấm dứt chiến tranh
tại Việt Nam, một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn
nhân, làm nát vụn quả tim Hoa Kỳ, lúc đó ông Kissinger là trưởng đoàn
hòa đàm và ông là tổng thống, lý do nào khiến ông tạo trở ngại cho việc
hòa đàm
Ông Thiệu: Hoàn toàn vô lý
với cáo buộc đó, nếu tôi gây trở ngại thì đã không có thoả ước hòa bình
năm 1973, dù mọi người đều biết, đó không phải là một hòa bình tốt đẹp
qua những hậu quả rõ ràng. Ông Kissinger đại điện Hoa Kỳ, với tư cách
tổng thống Việt Nam Cộng Hoà tôi có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi thiết yếu
của nước tôi.
Tôi nhiều lần nhấn mạnh với tổng thống Nixon và tiến sĩ Kissinger:
đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc rút bỏ một số vị trí trong
một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam không có gì là thiết yếu, song với
chúng tôi đó là việc sinh tử cho đất nước.
Der Spiegel: Ông Kissinger
cho biết sau cùng thì ông đồng ý với thoả thuận hòa bình, song ông ta
cũng nói thêm là vì sự cản trở của ông nên cuộc hòa đàm kéo dài rất lâu
và ông chấp thuận đề nghị của Hoa Kỳ với ý nghĩ thầm kín là chắc Hà Nội
sẽ từ chối.
Ông Thiệu: Không đúng, với
một cuộc chiến kéo dài gần 30 năm, cuộc thương thảo để kết thúc cần
nhiều hơn vài ba ngày hay vài ba tháng. Tôi hiểu là đối với Hoa Kỳ, đến
để trợ giúp chúng tôi, đây là thời gian tham chiến lâu nhất trong lịch
sử của quốc gia, vì thế Mỹ muốn kết thúc mau lẹ, song chúng tôi cần một
nền hòa bình lâu dài, bền vững
Der Spiegel: Ông Kissinger
cho rằng ông không muốn hòa bình và thầm mong là phía Bắc Việt cũng thế,
vì vậy ông chỉ đồng ý ngoài mặt với các đề nghị của Hoa Kỳ và tin chắc
là không bao giờ sẽ đưa đến một thoả ước, phải chẳng ông tráo trở không
thật lòng với hy vọng không bao giờ phải đưa ra ý kiến thật của mình
Ông Thiệu: Không thể nói là
một dân tộc phải chịu đựng đau khổ trên 30 năm lại muốn kéo dài chiến
tranh, ông Kissinger muốn có thoả hiệp thật nhanh để rút quân và tù binh
Mỹ được trao trả, có thể đó là chính sách rút chạy cấp tốc của Mỹ.
Người Mỹ đến rồi đi, chúng tôi ở trên xứ sở của mình, chúng tôi có
quyền đòi hỏi một nền hòa bình lâu dài, không phải chỉ vài năm rồi
lại tiếp nối với 30 năm chiến tranh
Der Spiegel: Ông Kissinger
cho biết là trong cuộc họp thượng đỉnh vào tháng sáu năm 1969 tại đảo
Midway trên Thái Bình Dương, ông đề nghị sự rút quân của Hoa Kỳ
Ông Thiệu: Trước cuộc họp
thượng đỉnh, tin tức báo chí cho biết chính phủ Mỹ dự định sẽ rút một
phần quân số tại Việt Nam, tôi nghĩ là chính phủ Mỹ muốn thăm dò dư
luận, tiết lộ cho báo chí đăng tin trước đó để đặt chúng tôi trước một
sự đã rồi.
Der Spiegel: Như thế ông đã hình dung ra các diễn tiến
Ông Thiệu: Đúng như vậy, hội nghị thượng đỉnh Midway có hai mục tiêu:
- gặp gỡ giữa 2 tân tổng thống và thảo luận về tình hình Việt Nam
- đi sâu về một điểm còn đang tranh luận là sự rút quân của Mỹ
Tôi nằm vững tình hình, không có cái nhìn sai lệch hay hốt hoảng.
Der Spiegel: Khi đề nghị
việc rút quân, ông có thực sự nghĩ là có thể đơn độc chiến đấu tới chiến
thắng cuối cùng; đây là một cuộc chiến tranh có sự tham dự của hơn
540,000 quân Mỹ với bộ máy chiến tranh khổng lồ mà còn không tạo được
chiến thắng
Ông Thiệu: Tôi không hề đưa
đề nghị rút quân, chỉ chấp thuận mà thôi, tổng thống Nixon giải thích
cho tôi hiểu là đây chỉ là một việc tượng trưng, ông ta cần có sự ủng hộ
của Quốc Hội, của dân chúng vì các khó khăn tại quốc nội. Tôi khuyến
cáo là đừng để Hà Nội coi đây là biểu lộ một nhược điểm của Hoa Kỳ
Der Spiegel: Ông không nghĩ là đây là sự bắt đầu của một sự rút quân toàn diện của Hoa Kỳ
Ông Thiệu: Tôi hình dung ra
đây là sự bắt đầu giảm thiểu quân số tham chiến của Mỹ, song không bao
giờ nghĩ là Hoa Kỳ sẽ rút hết quân ra và bỏ rơi Việt Nam. Tôi bày tỏ với
tổng thống Nixon là song song với việc giảm thiểu quân số Hoa Kỳ, khi
quân đội Việt Nam Cộng Hoà được tăng cường và với sự giúp đỡ kinh tế,
chúng tôi sẽ dần dần tự lập được. Và tôi nghĩ là ông ta muốn có sự tương
ứng của Hà Nội đáp lại việc rút quân. Hoa Kỳ đồng ý với tôi về việc rút
quân từ từ và song phương (Hoa Kỳ và Hà Nội)
Der Spiegel: và có tính cách tượng trưng
Ông Thiệu: Tôi hiểu là
chiến tranh Việt Nam tạo một khủng hoảng quốc nội tại Mỹ. Tổng thống
Nixon giải thích thêm là ông cần nhiều hành động có tính cách biểu tượng
để đối phó với việc nội trị. Vài tuần trước đó tại Hán Thành và Đài
Bắc, khi thảo luận với tổng thống Phác Chánh Hy và tổng thống Tưởng Giới
Thạch, tôi bày tỏ với nhị vị này hy vọng của tôi là sau khi thảo luận
với tổng thống Nixon tại đảo Midway, ông ta sẽ chỉ rút quân tượng trưng
mà thôi. Song tôi cũng ý thức rằng khi muốn thì Hoa Kỳ sẽ rút toàn bộ
quân số tham chiến tại Việt Nam. Vì thế sẽ hợp lý khi giúp đỡ tăng cường
quân lực Việt Nam Cộng Hoà tương ứng với việc rút quân Mỹ. Tôi không
bao giờ có ý nghĩ là quân đội Hoa Kỳ sẽ ở Việt Nam mãi mãi.
Der Spiegel: Cần lưu ý là Mỹ có đóng quân ở Nam Hàn và Tây Đức
Ông Thiệu: Chúng tôi là một dân tộc kiêu hãnh, chỉ cần sự giúp đỡ và võ khí, chúng tôi không thiếu nhân lực
Der Spiegel: Nhìn lại thì
ông phân tích ra sao về tình hình lúc đó, bộ trưởng quốc phòng Melvin
Laird phát biểu một danh từ mới: Việt Nam Hoá chiến tranh. Cho tới lúc
đó Hoa Kỳ nói đến: giảm thiểu sự Mỹ Hóa chiến tranh, sự thay đổi thuật
ngữ phải chăng ám chỉ rõ ràng là Hoa Kỳ muốn rút lui thật nhanh
Ông Thiệu: Khi ông Nixon
thăm Saigon vào tháng 7 năm 1969, ông ta nhắc lại với tôi là ông rất cần
sự ủng hộ của công chúng Mỹ tại quốc nội. Tôi thông cảm, ông ta không
hề nói đến sự rút quân theo kế hoạch đã có sẵn của Mỹ. Ông ta nhấn mạnh
đến những khó khăn tại Mỹ và sự giúp đỡ của tôi rất cần thiết, chúng tôi
đồng ý cộng tác để giúp lẫn nhau và chỉ nói đến sự rút quân từ từ.
Der Spiegel: Chứ không phải theo một kế hoạch Mỹ đã định sẵn hay sao
Ông Thiệu: Không, ông Nixon
lại hứa là sự rút quân kèm theo những biện pháp để Bắc Việt phải có
hành động tương ứng và đi đôi với quân viện sẽ kèm theo viện trợ kinh tế
để giúp chúng tôi đứng vững.
Der Spiegel: Ông có nghi ngờ là khi cần thiết Hoa Kỳ sẽ rút quân đơn phương
Ông Thiệu: Tôi cũng có sự hoài nghi, song lúc đó vẫn tin tưởng vào đồng mình Mỹ lớn mạnh
Der Spiegel: Ông có lý vì
trong cuốn hồi ký, ông Kissinger viết là không thể chấm dứt chiến tranh
Việt Nam dễ dàng như thay đổi đài trên truyền hình, vì đây là một việc
có liên quan đến hai chính phủ, 5 quốc gia đồng minh, và đã có khoảng
31,000 người Mỹ bị thương vong.
Der Spiegel: Hoa Kỳ muốn có
sự thoả thuận và chỉ đơn phương rút quân khi cần thiết, ông có đặt điều
kiện nào trong cuộc thương thảo giữa Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn
Ông Thiệu: Chúng tôi đã
chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt qua sự thương thảo. Chúng
tôi chỉ có một đòi hỏi là những người xâm lăng rút về lãnh thổ của họ
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết trong hồi ký là ông đã biết chắc là quân đội Bắc Việt sẽ ở lại miền
Nam song ông không hề phản đối cho tới tháng 10 năm 1972
Ông Thiệu: Đây là một sự
dối trá trắng trợn của ông Kissinger, nếu tôi đồng ý về việc quân đội
miền Bắc ở lại miền Nam thì đã không quyết liệt phản đối khi trong văn
bản dự thảo không có điều buộc quân đội miền Bắc rút quân về Bắc. Đây là
điều thiết yếu nhất mà tôi kiên định tranh đấu cho tới phút chót, tôi
cho ông Kissinger biết là sẽ không có hiệp định nếu không có điều khoản
miền Bắc rút quân về Bắc.
Sau nhiều ngày thảo luận gay cấn, ông Kissinger thú thật là điều
này đã được đưa ra 3 năm trước đây song Nga Sô không chấp nhận. Bây giờ
tôi nhận ra là Mỹ đã chịu thua Nga và thấy thất vọng vô cùng.
Der Spiegel: Người Nga có
thể phản ứng khác, tuy nhiên Hà Nội không quan niệm Nam Việt là ngoại
quốc và trong suốt một thời gian dài chối cãi là có sự hiện diện của
quân đội Bắc Việt tại miền Nam
Ông Thiệu: Với trên 20 năm
kinh nghiệm chiến trận, chúng tôi học được một điều là không bao giờ tin
những tuyên bố của Nga Sô và Bắc Việt. Ngay cả một người mù cũng nhận
thấy là có quân đội Bắc Việt tại Ai Lao, Cao Miên và Nam Việt. Chúng ta
phải nhìn vào dữ kiện thay vì tin vào những gì địch quân nói.
Der Spiegel: Ông có tranh luận với ông Kissinger về điều này
Ông Thiệu: Dĩ nhiên là có,
và ngay cả với tướng Haig. Tôi đặt câu hỏi với ông ta: ông và tôi đều là
tướng lãnh, xin cho tôi biết bất cứ một hiệp định hòa bình nào đạt được
khi quân xâm lăng không phải rút ra khỏi nơi họ xâm chiếm. Tôi cũng hỏi
thêm: Giả dụ khi Nga Sô được phép có quân trên lãnh thổ Hoa Kỳ, chắc
ông không thể nói là có hiệp định hòa bình với Nga Sô
Der Spiegel: Ông Kissinger trả lời ông ra sao
Ông Thiệu: Ông ta không có câu trả lời, làm sao trả lời được khi không có một luận cứ vững chắc nào cả
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết trong hồi ký: không thể bắt buộc Bắc Việt rút quân về Bắc vì không
ai đưa ra hội nghị bàn thảo để bỏ bớt đi những gì đã đạt được trên chiến
trường. Ông ta viết thêm: có một điều khoản trong hiệp định Ba Lê không
cho xâm nhập, rồi đi đến kết luận là: lực lượng quân đội Bắc Việt sẽ
bớt đi dần dần rồi không còn nữa với thời gian vì không còn được xâm
nhập
Ông Thiệu: Dưới cái nhìn
của tôi, chính phủ Hoa Kỳ và đặc biệt tiến sĩ Kissinger không thông hiểu
cách thức thương thảo với Cộng Sản, dù trải qua những kinh nghiệm đau
thương lúc hòa đàm với cộng sản năm 1954 và trong chiến tranh Triều
Tiên. Khi hội đàm về Ai Lao và Cao Miên, họ cũng không học hỏi và không
biết cách thương thảo với cộng sản, cũng không có khái niệm về chiến
thuật và chiến lược điều đình của cộng sản.
Chúng ta gặp khó khăn vì một nhân vật như tiến sĩ Kissinger, đại
diện một cường quốc và có tiếng là một nhà thương thuyết thuợng thặng,
lại tin tưởng là quân đội Bắc Việt sẽ ngừng xâm nhập miền Nam. Nguyên do
nào khiến ông ta có ý niệm như vậy ?
Làm sao có thể canh chừng kiểm soát biên giới của miền Nam với Ai
Lao và Cao Miên? Ngay cả khi với giả thuyết có 1 triệu kiểm soát viên
quốc tế, cũng không thể quả quyết là không có sự xâm nhập. Không hiểu
sao ông ta có thể tin vào các điều Bắc Việt tuyên bố.
Tiến sĩ Kissinger có thể tin cộng sản song chúng tôi không tài nào
tin họ được. Do đó tôi cứng rắn đòi hỏi sự rút quân của miền Bắc, khi
họ muốn hòa bình, tại sao lại muốn quân đội của họ lưu lại miền Nam ?
Der Spiegel: Ông Kissinger đối đáp ra sao
Ông Thiệu: Có gì đâu nữa mà
nói, ông ta và chính phủ Hoa Kỳ chỉ muốn rút lui thật nhanh, muốn chắc
chắn nhận được tù binh. Ngoài mặt họ giải thích về một giải pháp danh
dự, song trong lòng chỉ muốn bỏ của chạy lấy người, song không muốn thế
giới và dân Việt oán trách là họ bỏ rơi Việt Nam.
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết trong hồi ký, sau chiến dich Xuân- Hạ (mùa hè đỏ lửa) của quân đội
Bắc Việt vào năm 1972, hình như có sự thay đổi lập trường, Bắc Việt đột
nhiên muốn tiếp tục thương lượng song Nam Việt muốn tiếp tục chiến
đấu tới chiến thắng
Ông Thiệu: Điều này hoàn
toàn phi lý, tiến sĩ Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng, Bắc Việt đem
chiến tranh vào Nam. Chúng tôi đòi hỏi họ rút quân ra khỏi miền Nam, đó
là định nghĩa của chiến thắng hay sao. Tôi không đòi hỏi Bắc Việt các
điều khoản về tù binh, bồi thường chiến tranh, nhượng đất, tham gia vào
chính quyền Hà Nội. Ông Kissinger có ý niệm ra sao về chiến thắng và
chiến thắng trọn vẹn
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết trong hồi ký, ngày 31 tháng 5 năm 1971 là ngày Mỹ bỏ sự đòi hỏi rút
quân song phương trong các cuộc tiếp xúc bí mật với Hà Nội, ông ta nói
thêm là ông đã báo trước đề nghị nầy ít nhất ba lần và tổng thống đều
chấp nhận
Ông Thiệu: Tôi không bao
giờ chấp thuận điều khoản rút quân đơn phương. Từ khi có cuộc họp tại
Midway tôi luôn luôn đòi hỏi sự rút quân từ từ và song phương. Khi Hoa
Kỳ thay đổi lập trường, luôn áp dụng chiến thuật: khua kiếm trên đầu
tôi, nhắc đến công luận Mỹ và nói là dân chúng Mỹ chán ghét
ông Thiệu lắm, hay là Quốc Hội sẽ cắt giảm viện trợ. Họ cũng tiết lộ tin
tức cho báo chí đăng tải và đặt tôi trước sự đã rồi.
Nếu tôi từ chối, dư luận Mỹ sẽ nói: ông Thiệu đòi hỏi
quá nhiều, không muốn cho Hoa Kỳ rút quân, chúng ta sẽ không bao giờ
được trao trả tù binh. Vì thế tôi phải cắn răng chấp nhận. Làm sao tôi
chống cự được khi bị đặt vào thế chẳng đặng đừng với sự đe dọa cắt viện
trợ Mỹ
Der Spiegel: Ông Kissinger viết trong hồi ký: bất cứ quyết định nào ông đều được hội ý trước
Ông Thiệu: Họ hỏi ý tôi cho có lệ và sẽ dùng mọi áp lực để tôi phải chấp nhận những gì thuận lợi cho quyền lợi của Mỹ
Der Spiegel: Ông Kissinger
chỉ trích ông về cuộc hành quân Hạ Lào vào năm 1971, ông ta cho rằng ông
đồng ý là sẽ tấn công vào mùa khô, thực ra đó là ý kiến của ai
Ông Thiệu: Đó
là ý kiến của người Mỹ, thực ra chúng tôi mong muốn từ lâu có cuộc hành
quân đó song không đủ sức thi hành. Khi người Mỹ đưa ý kiến thì chúng
tôi đồng ý ngay để mau chấm dứt chiến tranh. Đây là một cuộc hành quân
hỗn hợp Việt-Mỹ với sự phân công rõ ràng: quân đội chúng tôi sẽ tác
chiến tại Ai Lao, quân đội Mỹ sẽ trợ giúp về không quân, pháo binh; vận
chuyển đạn dược, võ khí và có nhiệm vụ tiếp vận từ Việt Nam, từ biên
giới đến chiến trường
Der Spiegel: Tại sao là
vậy, không dùng hết hỏa lực và phương tiện chiến đấu, phải chăng vì Quốc
Hội Mỹ biểu quyết đạo luật cấm Mỹ can thiệp bằng bộ binh tại Ai Lao
Ông Thiệu: Tôi nghĩ vậy, chúng tôi thiếu phương tiện vận chuyển võ khí, đạn dược và nhất là tản thương,
vì địa thế phải dùng trực thăng, chỉ có Mỹ mới có đủ trực thăng. Nếu
biết trước phía Hoa Kỳ không giúp đầy đủ về phương tiện trực thăng thì
không khi nào chúng tôi đồng ý cuộc hành quân này
Der Spigel: Ông Kissinger
lại viết là vì phía Việt Nam không có sĩ quan liên lạc hành quân thông
thạo Anh Ngữ nên việc hỗ trợ của không quân Mỹ bị trở ngại
Ông Thiệu: Khi hành quân
nếu không quân không can thiệp được hay chậm trễ thì có thể dùng pháo
binh. Trong 3 ngay đầu của cuộc hành quân, sự tổn thất về trực thăng quá
lớn, vì vậy các phi công trực thăng Mỹ rất ngần ngừ trong các phi vụ,
trong khi kế hoạch hành quân rất cần thiết về sự đúng giờ và yếu tố quy
mô. Điều này gây khó khăn cho quân đội chúng tôi
Der Spiegel: Tinh thần chiến đấu sụp đổ ?
Ông Thiệu: Chúng
tôi không tản thương được, và các tử sĩ cũng không đem về hậu cứ được,
điều này không những làm tinh thần chiến đấu suy giảm mà còn làm chậm
bước tiến của cuộc hành quân.
Der Spiegel: Ông Kissinger
đưa ra một nguyên nhân khác về sự thất trận, ông viết là tổng thống
Thiệu ra lệnh cho các sĩ quan chỉ huy ngoài mặt trận, thận trọng tiến về
phía Tây và ngưng tác chiến ngay khi số thương vong lên đến 3,000. Ông
Kissinger cho là nếu biết trước điều này thì phía Hoa Kỳ sẽ không đồng ý
về cuộc hành quân.
Ông Thiệu: Khi hành quân,
không thể định trước chính xác được số thương vong. Tiến sĩ Kissinger
quả thật là người có óc tưởng tượng phong phú. Chúng tôi chỉ có thể tiến
về phía Tây trong vòng bán kính của trực thăng vận chuyển để tản
thương, tiếp vận và khi cần thì di tản. Ông Kissinger lại viết là lực
lượng hành quân của quân lực Việt Nam Cộng Hoà tự ý rút mà không hề
thông báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể âm thầm rút lui 10,000
quân lính mà không ai biết
Der Spiegel: Tức là ông có thông báo cho phía Hoa Kỳ
Ông Thiệu: Đương
nhiên là có. Một phóng viên chiến tranh chụp một tấm hình rồi đăng trên
tuần báo Time hay Newsweek, đó là hình chụp một binh sĩ bám vào càng
trực thăng di tản và gọi là nhát như thỏ. Làm sao chúng tôi có thể kiểm
soát hành động của một người lính, báo chí Mỹ chê chúng tôi nhát như thỏ
song không nói đến sự yếu kém tinh thần chiến đấu của phi công trực
thăng Mỹ
Der Spiegel: Một điểm bất đồng giữa Mỹ và Nam Việt là sự ngừng bắn. Trong hồi ký, ông Kissinger
viết là từ mùa hè năm 1970, chính phủ Hoa Kỳ đồng ý nguyên tắc ngừng bắn tại chỗ ngay tại vị trí đang giữ tại chiến trường theo kiểu gia beo, tác giả viết là không nhưng ông đồng ý mà còn nhiệt thành ủng hộ
Ông Thiệu: Rất đúng vì
ngừng bắn là điều đầu tiên để có thoả ước hòa bình, nhưng không phải là
nguyên tắc ngừng bắn ngay lập tức, tại chỗ mà phải suy nghĩ để tạo ra
thể lệ kiểm soát ngừng bắn ra sao, sự đóng quân để không có sự đụng độ,
biện pháp chế tài khi vi phạm
TT Nguyễn Văn Thiệu & TT Lyndon Johnson
Der Spiegel: Trong hồi ký,
tiến sĩ Kissinger viết: chúng tôi nghĩ là làm việc đồng bộ với tổng
thống Thiệu và không hiểu về chiến thuật đồng ý nguyên tắc rồi đòi bàn lại lại các chi tiết để rút ra như người Việt hay dùng với ngoại nhân
Ông Thiệu: Chúng tôi là một quốc gia nhỏ làm sao dám tráo trở khi mang ơn Hoa Kỳ với mọi sự giúp đỡ và cần trợ giúp trong tương lai lâu dài
Der Spiegel: Ông có nghĩ là
với hiệp định hòa bình quy định sự rút quân Mỹ và cho phép quân đội Bắc
Việt ở lại miền Nam, thì kể như là thua trận rồi
Ông Thiệu: Không hẳn bi đát
như vậy, nếu chúng tôi được Hoa Kỳ trợ giúp đầy đủ như đã hứa. Mặc dù
khi ký hiệp định Ba Lê vào tháng 1 năm 1973, chúng tôi ý thức đây là một
hiệp ước không thành thật song vẫn tin tưởng là có thể chống lại được
sự xâm lặng của miền Bắc.
Có hai điều tạo ra sự tin tưởng:
- một là tổng thống Nixon hứa là sẽ phản ứng quyết liệt khi Bắc Việt vi phạm hiệp định
Der Spiegel: Nhưng ông ta không nói rõ là sẽ phản ứng ra sao
Ông Thiệu: - hai là chúng tôi sẽ có quân viện và viện trợ kinh tế đầy đủ để đứng vững
Nếu chính phủ Hoa Kỳ giữ đúng lời hứa thì chiến tranh có thể còn tiếp diễn song miền Bắc đã không chiếm được miền Nam
Der Spiegel: Về điểm nầy tiến sĩ Kissinger tán đồng, ông ta cho rằng hiệp định Ba Lê có thể thành công khi Hoa Kỳ phản ứng quyết liệt với mọi vi phạm của miền Bắc, miền Nam cần được viện trợ đầy đủ. Ông cho là sự kiện Watergate làm cho tổng thống Nixon mất sức mạnh của hành pháp, ông nghĩ ra sao về luận cứ nầy
Ông Thiệu: Tôi
không phải là người Mỹ nên không thẩm định được. Chỉ có điều là khi Hoa
Kỳ giữ trọn lời hứa thì đó là biện pháp tốt nhất chống lại miền Bắc và
chiến tranh có thể tàn lụi.
Der Spiegel: Khi Hoa Kỳ giữ trọn lời hứa, theo ý ông thì hiệp định Ba Lê có thể thành công
Ông Thiệu: Tôi tin tưởng như vậy
Der Spiegel: Như thế thì hiệp định này không phải là không tốt đẹp
Ông Thiệu: Thật ra không
phải là một hiệp định thuận lợi cho chúng tôi, nó có nhiều điều lươn
lẹo, song đó là lối thoát cuối cùng. Chúng tôi đã ký với sự tin tưởng là
được bảo đảm thực thi bởi chính phủ Hoa Kỳ, 12 quốc gia và cơ quan Liên
Hiệp Quốc
Der Spiegel: Trong
hồi ký tiến sĩ Kissinger phê bình ác liệt các chính trị gia, ông ta
khen tổng thống Thiệu là một nhân vật thông minh, can đảm, học thức.
Song kèm theo đó là những lời chê bai rất nặng nề về cá tính khác , tiến
sĩ Kissinger cho biết chịu thua về thói quen của người Việt tráo trở
với đối thủ mạnh hơn. Tổng thống nghĩ sao về các điều này
Ông Thiệu: Tôi
không muốn đôi co, ông Kissinger có thể khen tặng hay chê trách bản
thân tôi. Điều tôi muốn nói là các diễn tiến thực sự giữa Hoa Kỳ và Nam
Việt
Der Spiegel: Chắc phải có nguyên đó cho các lời chỉ trích cá nhân nặng như vậy
Ông Thiệu: Có thể tiến sĩ
Kissinger quá tự tôn, nên ngạc nhiên khi phải đối chọi với một cá nhân
thông mình và cần cù, hay là ông ta quá ngạo mạn nên không bao
giờ nghĩ phải thảo luận với một người Việt có bản lãnh.
Ông Thiệu: Tôi
kể ông nghe một câu chuyện xảy ra tại hội nghị Midway, khi gặp gỡ tại
tư gia của một vị đại tá hải quân, trong đó có tổng thống Nixon, tiến sĩ
Kissinger, cá nhân tôi và một phụ tá, trong phòng có 4 ghế, 1 ghế cao
hơn 3 ghế khác, ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao đó
Der Spiegel: Như trong phim
của vua hề Charlie Chaplin về nhà độc tài vĩ đại, nhà độc tài Đức
Hitler ngồi trên ghế cao nhìn ngạo mạn nhà độc tài Ý Mussolini ngồi ở
ghế thấp hơn
Ông Thiệu: Tôi vào góc nhà
tìm một chiếc ghế có chiều cao tương tự như chiếc ghế của ông Nixon, và
ngồi trong tư thế ngang tầm với tổng thống Nixon. Sau đó các người bạn
Mỹ cho tôi biết là ông Kissinger rất đỗi ngạc nhiên và không ngờ về cách
xử thế của tôi
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết trong hồi ký là ông đối xử tệ bạc với ông ta, bỏ hẹn để đi trượt
nước, ông viết thêm là tổng thống Nixon có các lời bình phẩm cay độc về
ông
Ông Thiệu: Về
những lời bình phẩm cay độc của ông Nixon được trích dẫn, tôi không
muốn trả lời vì sẽ phải đôi co trong ngôn ngữ hạ cấp mà một người xuất
sứ từ một gia đình đàng hoàng như tôi không thể dùng.
Khi tôi không tiếp tiến sĩ Kissinger và đại sứ Bunker là lúc tôi
chưa có câu trả lời cho việc tiếp tục cuộc đàm phán, người Mỹ cần 4 năm ,
tại sao lại bắt buộc tôi có ý kiến trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Chúng
tôi không phải là những người chỉ biết vâng dạ: cá nhân tôi, người dân
Nam Việt Nam, Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà. Tôi cần thì giờ để tham vấn.
Der Spiegel: Tiến sĩ Kissinger viết trong hồi ký diễn tả ông là một người có bản tính hằn học hận thù
Ông Thiệu: Điều đó sai lạc,
tôi phải bảo vệ quyền lợi của đất nước tôi. Chắc chắn là có những cuộc
thảo luận gay cấn và thái độ của tôi phát xuất từ lòng ái quốc
Der Spiegel: Ông Kissinger
viết là ông ta thông hiểu thế chẳng đặng đừng của ông. Ông có nhận ra
điều thông cảm này của ông Kissinger hay không
Ông Thiệu: Tôi chỉ nhận ra một điều, đó là áp lực của chính phủ Hoa Kỳ
Der Spiegel: Ông
Kissinger cho rằng, chưa bao giờ tổng thống bàn cãi về nền tảng, nhưng
thích cách thức soi mói chi tiết thay vì làm sáng tỏ các điều trừu
tượng, thích nói chuyện lòng vòng thay vì đi ngay vào điểm chính
Ông Thiệu: Hãy hình dung ra
trường hợp của tôi, khởi đầu tôi tin tưởng vào Hoa Kỳ trong các cuộc
thảo luận bí mật với Hà Nội, có lời hứa của ông Kissinger là sẽ thông
báo mọi sự đầy đủ cho tôi rõ. Nhưng họ chỉ cho tôi biết những điều họ
muốn tôi biết và dấu nhẹm các việc khác. Tuy vậy tôi vẫn tin tưởng là
Hoa Kỳ không thể nào bán đứng nước tôi trong cuộc hội đàm với Bắc Việt.
Chỉ bốn ngày trước kia tới Hà Nội vào tháng 10 năm 1972 với dự thảo
hiệp định dự kiến sẽ ký kết tại Ba Lê, phía Hoa Kỳ mới cho tôi xem bản
dự thảo bằng Anh Ngữ, dĩ nhiên chúng tôi cần thời gian để nghiên cứu kỹ
càng văn bản Anh Ngữ này
Bản văn này là do Hoa Kỳ và Bắc Việt soạn thảo chứ không phải giữa
Hoa Kỳ và chúng tôi. Đúng ra phải là dự thảo từ phía Hoa Kỳ và Nam Việt,
rồi đưa cho phe Bắc Việt thảo luận
Nhưng đây là một bản văn bằng Anh Ngữ do Hoa Kỳ và Bắc Việt soạn
thảo, nguyên do nào mà một hiệp định quyết định vận mạng của cả một dân
tộc lại không có văn bản bằng ngôn ngữ của dân tộc đó
Der Spiegel: Nhưng rồi ông cũng có một văn bản Việt Ngữ do Hoa Kỳ cung cấp
Ông Thiệu: Chúng tôi cương
quyết đòi hỏi điều này và sau cùng ông Kissinger miễn cưỡng đưa cho
chúng tôi văn bản Việt Ngữ ; và chúng tôi nhận ra ngay nhiều sơ hở trầm
trọng. Khi chúng tôi vặn hỏi về tác giả bản văn thì đại sứ Bunker và
tiến sĩ Kissinger cho biết là phát xuất từ một người Mỹ
trong International Linguistics College và những nhân viên của Bắc Việt.
Ai cũng biết là không người Mỹ nào có thể thông thạo Việt Ngữ bằng một
người Việt, nhất là không một người Mỹ nào mà chỉ có chúng tôi có thể am
tường Việt Ngữ qua cách hành văn của cộng sản. Sự kiện này có phản ảnh
sự chân thành của một Đồng Minh hay không ?
Der Spiegel: Nhiều giới
chức cao cấp trong chính phủ Hoa Kỳ cho rằng tiến sĩ Kissinger tạm thời
trì hoãn, câu giờ để có khoảng cách thời gian từ lúc Hoa Kỳ rút quân cho
đến khi miền Nam sụp đổ. Trong hồi ký ông Kissinger bác bỏ nhận định
này, riêng ông thì ông nghĩ sao ?
Ông Thiệu: Mục đích của Hoa Kỳ là có chính phủ liên hiệp, bắt chúng tôi phải thỏa hiệp với cộng sản
Der Spiegel: Ông Kissinger đưa ra nhiều lập luận để phản bác điều này
Ông Thiệu: Hoa Kỳ chỉ muốn
rút quân và được trao trả tù binh Mỹ, rồi tuyên bố trong nước với dân
chúng Mỹ: có hòa bình trong danh dự. Đối với công luận quốc tế họ sẽ
nói: chúng tôi đã tạo dựng hòa bình, bây giờ là lúc người dân miền Nam
quyết định, nếu cộng sản lũng đoạn chính phủ liên hiệp trở thành hoàn
toàn cộng sản thì lỗi là tại họ
Der Spiegel: Ông Kissinger viết trong hồi ký: nguyên tắc hòa đàm của chúng tôi là Hoa Kỳ không phản bội bạn hữu
Ông Thiệu: Hãy nhìn xem
tình hình bây giờ ra sao tại Nam Việt, Cao Miên và toàn cõi Đông Dương.
Khi hội thảo với đại diện Hoa Kỳ, chúng tôi luôn có cảm tưởng là họ
không những đại diện cho quỷ dữ mà họ còn hành động như vậy nữa
Der Spiegel: Có bao giờ ông
cảm tạ những sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho xứ sở của ông? , tiến sĩ
Kissinger viết cay đắng trong hồi ký: cảm tạ và biết ơn không phải là cá
tính của người Việt
Ông Thiệu: Có lẽ chỉ những
người bất thường và mất trí mới có thể hạ bút viết như vậy, tiến sĩ
Kissinger còn viết trong hồi ký là lo sợ sự trả thù của người Việt đối
với những người Mỹ còn ở lại sau khi Mỹ rút hết quân đội ra khỏi miền
Nam. Người Việt chúng tôi không bao giờ có hành động trả thù như vậy
Der Spiegel: Bản thân ông có tự cảm thấy một sự biết ơn với người Mỹ
Ông Thiệu: Chân tình mà
nói, nếu chính phủ Hoa Kỳ không phản bội và đâm sau lưng chúng tôi thì
có lẽ dân tộc Việt sẽ mãi mãi cảm tạ Mỹ. Sau một cuộc thảo luận gay cấn
với ông Kissinger về văn bản hiệp đình hòa bình, một số vị trong nội các
chính phủ mai mỉa là nếu ông Kissinger giúp chúng ta như giúp miền Bắc
thì may mắn biết bao. Tôi tuyên bố với các vị đó: nếu ông ta thương
thuyết với Bắc Việt để đạt được một nền hòa bình thực sự cho chúng ta,
thì miền Nam sẽ xây dựng một bức tượng cảm tạ như người dân Nam Hàn đã
xây dựng một bức tượng như thế dành cho tướng MacArthur. Đáng buồn thay
thực tế không phải như vậy.
Hậu quả của hiệp định hòa bình nầy: trại tập trung tù cải tạo, nạn
đói kém, sự tra tấn, cả trăm ngàn người mất mạng trên Thái Bình Dương
khi là những thuyền nhân vượt biển tìm tự do; đây là một cuộc diệt chủng
dã man, hệ thống hoá, có kế hoạch hơn cuộc diệt chủng tại Cao Miên.
tiến sĩ Kissinger không thể tự hào với nên hòa bình của những nấm mồ như
vậy, người Mỹ nên tự xét mình về những hậu quả nêu trên.
Der Spiegel: Xin cảm ơn ông đã trả lời những câu hỏi của chúng tôi trong cuộc phỏng vấn này
Nguyễn Viết Kim chuyển ngữ
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire