lundi 16 avril 2018

Phóng viên người Mỹ nhớ lại những giây phút cuối của Sài Gòn - Việt Hà, phóng viên RFA

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/an-american-journalist-recalls-sg-fall-vh-04282015152247.html/ARI-evacuation.jpg/imageCựu phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun, Hoa Kỳ nằm trong số làn sóng những phóng viên Mỹ cuối cùng đến Việt Nam để đưa tin về cuộc chiến trong giai đoạn từ 1972 đến 1975. Ông là người đã rời Sài gòn vào ngày 29 tháng 4 cùng với nhiều phóng viên nước ngoài khác.
Nhân kỷ niệm 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam, phóng viên Arnold Issacs đã dành cho Việt Hà một cuộc phỏng vấn nhớ lại những năm tháng cuối của Việt Nam cộng hòa và những giây phút cuối của Sài gòn. Trước hết nói về bối cảnh cuộc chiến Việt Nam khi ông bắt đầu nhận nhiệm vụ đến Việt Nam để viết về cuộc chiến, phóng viên Arnold Issacs cho biết:
Vào tháng 6 năm 1972 là khi những cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã đang được thành hình. Tôi nhớ không nhầm là vào tháng 4 và tháng 5, Bắc Việt đưa quân vào tấn công và chiếm lấy Quảng Trị. Họ cũng bao vây hai thủ phủ của hai tỉnh khác nhưng vào lúc mà tôi tới thì tình hình đã ổn định hơn và quân miền Nam đã tiến công lại. Đó là giai đoạn của cuộc chiến mà tôi bước vào.


Việt Hà: Khi ông đến Việt nam để đưa tin về cuộc chiến vào năm 1972 và sau đó là hiệp định Paris, ông có cảm giác rằng cuộc chiến sẽ sớm chấm dứt không?
Arnold Issacs: Bản thân hiệp định không thực sự giải quyết được câu hỏi về cuộc chiến. Cho nên nó không cho cảm giác là sẽ có một sự kết thúc. Nhưng tôi cũng không nghĩ là lệnh ngưng bắn sẽ hoàn toàn vô hiệu lực như đã xảy ra. Cho nên trong một thời gian ngắn tôi đã nghĩ cuộc chiến sẽ tiếp tục nhưng sẽ ở mức độ ít nghiêm trọng hơn và sẽ có quá trình đàm phán. Tôi đã vui khi xung đột ít đi nhưng nó không kéo dài bao lâu. Chỉ trong vòng 1 tuần sau đó, rõ ràng lệnh ngưng bắn đã không thay đổi điều gì. Điều thực sự thay đổi chỉ là những buổi họp báo ngắn hàng ngày. Trước đó họ thường nói là kẻ thù là bên bắt đầu những vụ gây hấn, còn bây giờ thì họ nói kẻ thù là bên vi phạm lệnh ngưng bắn. Nói chung là cũng giống nhau chỉ có từ ngữ là thay đổi.
Việt Hà: Một số người sau này nói rằng ngay sau khi hiệp định Paris được ký, cuộc chiến dường như đã kết thúc đối với miền Nam. Ông có nhận xét gì về ý kiến này?
Arnold Issacs: Tôi không nhìn thấy như vậy. Cuối cùng thì nhìn nhận của những người đó là đúng nhưng nó phải mất 2 năm để cuộc chiến kết thúc. Bối cảnh là trận chiến lớn vào năm 1972. Đó là năm của những trận chiến khốc liệt nhất. Đó là lý do cả hai  phía đều mệt mỏi. Không bên nào giành được thắng lợi thực sự mà họ muốn. Sự bế tắc vẫn duy trì nhưng xung đột thì ở mức cao hơn. Thương vong của quân miền Nam cao hơn so với tất cả những năm trước đó.
Nhiều đơn vị tinh nhuệ phía Nam không còn chiến đấu hiệu quả như trước kia. Nhưng phía bên kia cũng chịu tổn thất tương tự.  Đó là lý do mà chúng ta có hiệp định. Cả hai bên đều ra những đòn mạnh nhất và đều không thắng. Người ta có thể nói khác bây giờ nhưng đó là sự thật mà tôi thấy. Tôi chắc chắn đã không nghĩ là cuộc chiến sẽ sớm kết thúc và tôi có cảm giác là phía Bắc sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng kết cục của cuộc chiến vẫn còn xa và nhiều người không nghĩ nó sẽ có kết thúc nhanh chóng vào lúc đó.
Việt Hà: Nhưng vào giai đoạn đó, số lượng phóng viên Mỹ đến chiến trường Việt Nam cũng không nhiều như trước nữa…
Arnold Issacs: Những chuyện mà người Mỹ quan tâm là cuộc chiến của người Mỹ. Họ muốn biết điều gì đã xảy ra với những người lính của họ. Họ không quan tâm lắm điều gì xảy ra với người Việt Nam. Họ không quan tâm lắm đến kết cục cuối cùng. Đến lúc đó người Mỹ chỉ bực tức khó chịu, và không tin là cuộc chiến mang lại cái gì. Cho nên mối quan tâm của người Mỹ giảm đi rất nhiều và báo chí phản ảnh điếu đó….Tôi nghĩ là những tin đưa về cuộc chiến trên báo chí Mỹ cũng giảm. Báo mà tôi làm việc vốn có phóng viên chiến trường ở Việt Nam nhưng chuyện về cuộc chiến cũng không nằm ở trang đầu mà nằm ở trang 16. Và cũng không có nhiều thảo luận tại Washington. Cho nên không có nhiều tin để đưa. Các tranh luận toàn quốc cũng hết. Và công chúng Mỹ dường như chấm dứt nói chuyện về cuộc chiến ngay sau khi quân Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam theo hiệp định. Họ không còn muốn nói về cuộc chiến nữa.
Việt Hà: Đến lúc nào thì ông thực sự có suy nghĩ là kết cục đang đến gần?
Arnold Issacs: Sau khi quân miền Nam đã đi đến hạn mức của mình trong phản công sau ngưng bắn và quân miền Bắc tấn công lại, dường như không có ai nói đến tình hình kinh tế miền Nam lúc đó, nó cũng giống như khủng hoảng kinh tế vào năm 1930. Nó bắt đầu với vụ mùa kém vào năm 1972, giá gạo lên cao. Mỹ rút và hàng trăm ngàn người Việt Nam mất việc. Kinh tế miền Nam Việt nam lúc đó không có nhiều hoạt động.

Phóng viên Arnold Issacs chụp với một dân làng Việt Nam tháng 11/1972
ARI-and-Vietnamese-villager-Nov72-400.jpgTôi nhớ một Bộ trưởng chính quyền miền Nam có nói về chúng tôi, những người Mỹ như là một ngành kinh doanh du lịch và đó là sự thực. Nhiều người Việt làm cho các căn cứ quân sự của Mỹ. Những việc làm đó bị mất. Vào năm 1973 chúng ta có cấm vận dầu mỏ đầu tiên sau cuộc chiến ở trung đông, giá dầu tăng gấp đôi trong vòng 2 tháng. Nó khiến giá cả hàng hóa tăng. Nhiều hàng hóa của miền Nam là nhập khẩu và bị ảnh hưởng. Cho nên người dân miền Nam phải trải qua một sự khó khăn về kinh tế thực sự. Lương người lính không đủ đáp ứng nhu cầu gia đình họ…. đó là khoảng năm 1973 và 1974. Lính bỏ ngũ trong quân đội miền Nam cao và trong các năm đó thì con số bỏ ngũ lên rất cao, đến con số 200,000 người bỏ ngũ, tức là 1/5 sức mạnh quân đội.
Thật khó để miêu tả cảm giác của tôi lúc đó trước khi mà tôi biết được điều gì sẽ xảy ra như bây giờ tôi biết…. Một mặt, vào khoảng giữa năm 1974, tôi có cảm giác cơn sóng đang đi ngược lại miền Nam nhưng tôi không thể tưởng tượng được một hình ảnh rõ ràng là một bên thắng và bên kia hoàn toàn sẽ không còn tồn tại. Tôi không thể tưởng tượng được điều đó cho đến khi cuộc tổng tấn công cuối cùng bắt đầu và quân miền Nam rút. Nó bắt đầu vào giữa tháng 3 năm 1975 và chỉ khoảng 6 đến 7 tuần sau đó Sài gòn sụp đổ.
Việt Hà: Ông rời Việt Nam vào ngày 29 tháng 4, ngay trước ngày Sài gòn sụp đổ. Ông có bao giờ nghĩ là ông đã có thể ở lại để đưa tin ngày cuối của cuộc chiến không?
Arnold Issacs: Tôi không sợ mình sẽ ở lại. Tôi không nghĩ là mình sẽ gặp nguy hiểm cực kỳ nếu tôi nhỡ mất chuyến di tản. Quyết định của tôi lúc đó là tôi làm những gì an toàn hơn cả và tôi đưa ra quyết định nhanh. Tôi không ở cùng một vị trí như những người Việt Nam lúc đó, những người phục vụ quân đội miền Nam hay chính quyền miền Nam hay làm việc cho Mỹ. Họ lo sợ rằng họ sẽ bị truy tố, bị mất cuộc sống, hoặc bị giết hại. Nhưng đó không phải là tình huống của tôi. Nếu tôi vẫn ở đó khi quân cộng sản vào, tôi không nghĩ là tôi sẽ vẫn có thể gửi tin về cuộc chiến. Lúc đó rất khó để đến được căn cứ không quân. Tôi đã nghĩ mình sẽ bị kẹt ở khách sạn và bị giữ ở đó cho đến khi họ tống chúng tôi ra khỏi Việt Nam. Nhưng tôi không nghĩ là mình sẽ bị giết hay giam giữ trong tù nhiều năm. Tôi là người Mỹ và gia đình tôi không ở đó. Tôi biết điều đó.
Việt Hà: Tin cuối cùng ông viết về cuộc chiến Việt Nam ông còn nhớ là tin gì không?
Arnold Issacs: Tin cuối mà tôi nhớ là Tổng thống Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng 4, 9 ngày trước khi kết thúc cuộc chiến. Vài ngày sau, ông rời nước. Ông bàn giao chính phủ cho Phó Tổng Thống. Ông Hương giữ chức thêm một tuần, trong khi đó quân miền Bắc tiến gần hơn vào Sài gòn. Cuối cùng vào ngày 28 ông Hương từ chức và giao quyền cho Dương Văn Minh, người được coi là lực lượng thứ 3, không đại diện cho chính quyền Sài Gòn hay cộng sản.
Tôi theo dõi những diễn biến đó. Tôi vào dinh và không có quân lính canh gác. Chúng tôi chứng kiến ông Hương đọc diễn văn và từ chức và theo dõi ông Minh đọc lời thề. Tôi viết tin và gửi tin đi. Ngay khi đó tôi nghe thấy có tiếng nổ lớn. Quân cộng sản đã lấy được máy bay chiến đấu vào đầu cuộc phản công, và có thể là một số phi công phía Nam đã ném bom Tân Sơn Nhất. Đó là mở đầu của cuộc tổng tấn công cuối và Tân Sơn Nhất bị ném bom, điều chưa từng xảy ra trước đó. Tôi không biết ngay điều gì xảy ra vào lúc đó, nhưng sau đó bom tiếp tục ném xuống. Mặc dù căn cứ không quân cách trung tâm thành phố 4 miles nhưng tôi nghe như rất gần. Tôi có cảm giác được những rung chuyển do bom. Quân lính trong Sài Gòn bắt đầu bắn súng lên trời. Chúng tôi không nhìn rõ mọi thứ vì nhiều khói. Vào sáng sớm hôm sau, họ bắn vào sân bay. Cho nên tôi nghĩ tin cuối về chiến tranh Việt nam mà tôi viết là tướng Minh nhậm chức.
Tôi có thể viết thêm một tin sau đó mà tôi không nhớ. Vào sáng hôm sau, di tản bắt đầu. Cuối ngày hôm đó tôi ở trên tàu và tôi viết về cuộc di tản. Nhưng chúng tôi không thể gửi tin đi. Không điện thoại di động hay internet. Những phóng viên trên tàu đều giống tôi. Chúng tôi viết tin trên tàu và giữ ở đó. Thuyền trưởng tàu hứa sẽ chuyển tin của chúng tôi lên ban chỉ huy khi có thể và chuyển tin về Mỹ ngay lúc nào có thể được. Cuối cùng thì tin mà tôi viết về cuộc di tản về đến Baltimore khoảng 4 hay 5 ngày sau. Cho nên câu chuyện cuối cùng mà tôi viết từ trên tàu và không được xuất bản cho đến vài ngày sau đó.
Việt Hà: Xin cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn.

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/40years-april30/an-american-journalist-recalls-sg-fall-vh-04282015152247.html
*
*     *
Quân nhân Mỹ gốc Việt chia sẻ nhân ngày 30/4 
Hòa Ái, phóng viên RFA
*
*     *
Tuổi trẻ hải ngoại lớn lên từ 40 năm 
Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire