Mùa Phục Sinh lại đến. Chúa sống lại trong niềm hoan lạc của con cái
Chúa và vì Chúa sống lại cũng để cho chúng con được sống lại trong vinh
quang. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 2011, Bà Ngô Đình Nhu đã trút hơi thở
cuối cùng tại một bệnh viện ở La Mã (22/8/1924- 24/04/2011) trong khi mọi người đang rộn ràng
mừng lễ Chúa Phục Sinh. Bà đã chết đi trong ánh sáng của Chúa Phục
Sinh. Bà đã âm thầm và lặng lẽ trên đường đi về Nhà Cha như mỗi buổi
sáng bà lủi thủi đơn côi đi dâng thánh lễ bắt đầu cho một ngày mới. Bà
đã sống lại trong niềm tin yêu vô cùng nơi Thiên Chúa là nơi bà đã ngày
đêm cậy trông và nương tựa trong những tháng ngày đau khổ nơi trần gian.
Rất
nhiều người đặt câu hỏi rằng trước khi lìa trần bà Ngô Đình Nhu có
trăng trối qua tiếng nói hay bút tích không. Câu trả lời là có và đây
là lời trăng trối ngắn gọn được bà viết bằng tiếng Pháp:
"Tôi Trần Lệ Xuân, Dân biểu lập Hiến Pháp, Dân biểu quốc Hội, Chủ tịch
Phong trào Phụ Nữ Liên Đới, Vâng lệnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với sự
đồng ý của chồng tôi, ông cố vấn Ngô Đình Nhu, rời Viêt Nam sang các
nước Tây Phuơng tranh đấu cho sự thật và độc lập của đất nước tôi, trong
lúc tôi rời đất nước các thế lực Tây Phương đã dùng nhóm phản loạn,
phản bội lại chính quyền Dân Chủ và Độc Lập Việt Nam Cộng Hoà, đã sát
hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Gia tộc của Tổng Thống và chồng tôi, sứ
mệnh của tôi càng trở nên khó khăn hơn, khi con gái của tôi Ngô Đình Lệ
Thủy bị sát hại vì muốn nói lên tiếng nói sự thật, sứ mệnh của tôi chưa
hoàn tất, tôi vẫn là con dân Việt Nam Cộng Hoà, vẫn là Sứ Giả của nước
Việt đến hơi thở cuôi cùng với Sự Vụ Lệnh của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm... "
Bà
Ngô Đình Nhu được Tổng Thống Ngô Đình Diệm trao phó một sứ vụ vô cùng
khó khăn và nặng nề. Thân nhi nữ cô độc gánh vác sứ vụ đội đá vá trời
chống đỡ lại những mưu mô và kế hoạch thâm độc của Hoa Kỳ và các tổ chức
quốc tế được sự thông đồng của Mỹ để triệt hạ chính thể Đệ Nhất Việt
Nam Cộng Hoà. Bà đã vẫy vùng trong một vũng lầy của những gian manh xảo
quyệt của các hệ thống truyền thông quốc tế và ác tâm của một đường lối
vô nhân đạo mà chánh quyền Hoa Kỳ đương thời chỉ với một mục đích phục
vụ quyền lợi của một nhóm tư bản đứng sau toà Bạch Cung đã tàn nhẫn
xuống tay đưa cả dân tộc Việt Nam vào vòng điêu linh thống khổ. Tổng
Thống Ngô Đình Diệm là người đặt quyền lợi và danh dự quốc gia hơn cả
mạng sống mình đã bị thảm sát vô cùng dã man. Bà Ngô Đình Nhu cũng bị
tắt tiếng sau cái chết đau thương của vị nguyên thủ quốc gia.
Bà
Nhu được giao phó nhiệm vụ “tranh đấu cho sự thật và độc lập của đất
nước”. Bà lên đường với một sự vụ lệnh của Tổng thống và bà đã vô cùng
dũng mãnh quyết liệt chống chọi với bọn truyền thông gian manh quốc tế
và những xảo quyệt của chính quyền Hoa Kỳ. Mùa thu năm 1963 cả thế giới
đã kinh ngạc nghe và nhìn bà Nhu mạt sát và lên án những người được gọi
là bạn, là đồng minh Hoa Kỳ ngay tại một địa điểm chỉ cách Toà Bạch
Cung mấy con đường. Nhiều người cho đó là một hành vi thiếu khôn ngoan
nhưng có ai thấu hiểu đó chỉ là những tiếng kêu tuyệt vọng của một người
lương thiện trước khi bị bọn gian manh thổ phỉ hành quyết.
Đọc
những dòng chữ trăng trối của bà Nhu thì không ai có thể phủ nhận được
tâm huyết của bà với non sông đất nước. Nằm trên giường bệnh trong giờ
phút lâm chung nhưng bà không nghĩ đến những oan cừu khổ nạn mà bà và cả
gia đình bà phải thống khổ chịu đựng. Bà không thù oán những người đã
cầm súng bắn vào chồng bà bởi vì bà nói “đó là một bọn ngu dốt” không
đáng đếm xỉa đến. Nhưng hơi thở cuối cùng của bà vẫn trông về quê hương
yêu dấu mà bà đã can đảm dự phần trong công trình xây dựng một quốc gia
thanh bình thịnh vượng, toàn dân sống trong tự do no ấm. Bà tiếc nuối
vì sứ mạng đã bị trù dập và không hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Bà
vẫn tự gánh vác trọng trách đó cho đến hơi thở cuối cùng trong đơn côi
lặng lẽ cho dù đó chỉ là những ước vọng của những giây phút tàn hơi.
Một lãnh tụ chánh trị khoe đã gặp bà Nhu và nghe than thở “thời của tôi
đã hết rồi”. Đây cũng chỉ là một tưởng tượng nghèo nàn của vị lãnh tụ
này mà thôi. Bởi vì những giây phút cuối đời thì bà Nhu khẳng định vẫn là Sứ Giả của nước Việt đến hơi thở cuôi cùng với Sự Vụ Lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm...
Bài
viết này đến tay độc gỉả nhân ngày giỗ thứ năm bà Ngô Đình Nhu. Từ sau
ngày Đệ Nhất VNCH sụp đổ, bà Nhu sống đơn độc nơi đất khách quê người
gần như hoàn toàn cách biệt với những sinh hoạt chộn rộn của một con
người. Người yêu kẻ ghét với những lời khen tiếng chê đã không lọt qua
bức tường căn phòng nhỏ hẹp của một người muốn rũ bỏ tất cả những oan
cừu trần gian. Bà sống khổ hạnh như một nữ tu ngong ngóng trông chờ giây
phút “đoàn tụ” với ông chồng mà bà hết lòng yêu thương và kính phục.
Gần
đây có một quyển sách viết về bà Nhu bằng tiếng Anh với tựa đề FINDING
THE DRAGON LADY của tác giả Monique Demery và vừa được dịch sang tiếng
Việt Nam với một loại chữ nghĩa văn thể rất kệch cỡm : MADAM NHU TRẦN LỆ
XUÂN QUYỀN LỰC BÀ RỒNG. Tác giả Demery đã có một thời gian “học tập” ở
Hà Nội, nói tiếng Việt thành thạo giọng đặc Hà Nội. Tôi có xem qua quyển
sách này, không có gì gọi là tư liệu hay lịch sử. Từ đầu đến cuối chỉ
là những sao chép vụng về chẳng có một giá trị nào dù rất nhỏ nhoi. Vào
Google đánh chữ Bà Ngô Đình Nhu thì có đến gần 4 triệu tài liệu và bài
viết nói về bà Nhu được đăng tải rải rác trên nhiều mạng lưới vi tính từ
nhiều quan điểm khác nhau đã được bà Demery vơ vét làm của riêng mình
rồi nặn óc sáng chế ra một cái tựa sách nghe ra cũng độc mồm độc miệng.
Bà Demery viết và đọc tiếng Việt Nam thành thạo nên đa số những cái gọi
là “tài liệu hiếm qúy” trong quyển sách này đã từ lâu xuất hiện trên các
mạng lưới vi tính Việt ngữ. Tựa đề của cuốn sách trong bản dịch tiếng
Việt với mấy chữ QUYỀN LỰC BÀ RỒNG có thể làm người đọc hình dung ra
hình ảnh của một “bà rồng” mặt sắt đen xì dữ tợn hung ác nhưng trong cả
cuốn sách chỉ toàn là những nhai đi nhai lại nhàm chán trên các mạng
lưới vi tính Việt ngữ chứ chẳng thấy “bà rồng” đâu.
Tác giả Demery sẽ biện minh như thế nào khi gán ghép cho “bà rồng” một giai thoại như sau:
When her brother-in-law, President Ngo Dinh Diem, had once questioned
the modesty of Madame Nhu’s slim-fitting tunics, referring to their
décolletage, she is said to have silenced him with a withering reply:
“It’s not your neck that sticks out, it’s mine. So shut up” (P.18)
Một dịch giả dễ tính có thể chuyển dịch những dòng chữ này một cách giản lược như sau:
Tổng Thống Ngô Đình Diệm tỏ vẻ không được hài lòng vì cái áo dài hở cổ
của bà Nhu. Nhưng bà em dâu đã xấc xược trả lời ông anh chồng: “Cái cổ
tôi hở ra chứ không phải cổ của ông. Vậy thì ông câm mồm đi.”
Đọc những dòng chữ bặm trợn này thì ai cũng có thể lượng giá được khả năng viết lách của tác giả và giá trị của quyển sách.
Đã
rất lâu tôi có xem một phim tài liệu của hai nhà nữ nhân chủng học
người Mỹ làm công việc khám phá một bộ lạc gần như tuyệt chủng ở trong
rừng rậm Phi châu và chưa hề có bất cứ một tiếp xúc dưới bất cứ hình
thức nào với thế giới bên ngoài. Hai nhà nữ nhân chủng học này đã lặn
lội trong những điều kiện vô cùng gian khổ và đã đến được nơi muốn đến.
Hai cô gái xinh đẹp này đã sống với hai người đàn ông hiếm hoi còn lại
của bộ tộc này như vợ chồng trong thời gian một năm. Họ học tiếng nói
cũng như ăn uống sinh hoạt như một thành viên của bộ tộc và như là những
người vợ của hai người đàn ông còn lại của bộ tộc trước ngày bị hoàn
toàn diệt chủng. Hai cô gái trở về Mỹ đã cống hiến cho thế giới một tài
liệu phong phú và những thước phim chân thực sống động vô cùng qúy giá.
Họ đã tự mang cả thân mình ra để làm một công việc mà họ say mê và bằng
mọi cách phải đạt đến mục tiêu tuy rằng phương cách làm việc của họ
không đáng được khuyến khích và đề cao.
Tác
giả Demery cũng chỉ nghe và biết đến bà Nhu qua báo chí và những bài
viết trên các mạng lươí vi tính mà thôi. Trong cuốn sách, bà Demery xác
nhận có hẹn gặp bà Nhu hai lần nhưng cả hai lần bà Nhu đều thất hẹn.
Mặc dù bà Nhu sống đời ẩn dật tự giam hãm mình trong một căn phòng nhỏ
nhưng bà Nhu cũng có những chọn lựa và suy tính trong các giao tiếp rất
hiếm hoi. Bà Demery hẹn gặp bà Nhu ở nhà thờ Saint Leon là nơi bà Nhu
đi lễ hàng ngày. Thế nhưng đến ngày giờ hẹn thì bà Nhu lại không đến.
Lần sau thì bà Nhu hẹn gặp tại nhà, bà Demery đến đúng hẹn nhưng bà Nhu
lại không mở cửa. Bà Nhu cũng chẳng mặn mà gì với những gặp gỡ này và cố
tình hủy bỏ cuộc hẹn.
Vậy
thì ngoài những sao chép trên các mạng lưới vi tính và chưa một lần
được gặp bà Nhu thì bà Demery lấy gì và biết gì để viết về cả một cuộc
đời cay đắng nghiệt ngã của bà Nhu.
Rất
nhiều người có chung một quan điểm là nếu bà Nhu có mặt tại dinh Gia
Long vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 thì cục diện của vụ phản loạn chắc
chắn đã không xẩy ra như vậy. Là thân nữ nhi nhưng bà Nhu lại có một
dũng chí và rất quyết liệt trong những tình huống dầu sôi lửa bỏng.
Thuở sinh thời, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ nhiều lần tiếc nuối nói nếu như bà
Nhu không đi ra nước ngoài thì chắc là vụ phản loạn đã bị dẹp tắt ngay
từ những tiếng súng lạch cạch của mấy chú tân binh quân dịch từ trung
tâm huấn luyện Quang Trung. Ông Duệ nói rằng bà Nhu rất kính trọng và
phải nói là rất sợ ông anh chồng Tổng Thống nhưng lúc cần phải lên tiếng
thì bà cũng rất mạnh bạo. Nhiều người truyền miệng câu chuyện bà Nhu
bị Tổng Thống Diệm giận dữ ném cái gạt tàn thuốc lá vào người thì đó
cũng chỉ là một bịa đặt nhảm nhí. Nghị sĩ Lê Châu Lộc nguyên là tùy
viên của Tổng Thống Diệm xác nhận là bà Nhu cũng như tất cả những người
khác muốn gặp Tổng Thống thì đều phải đi qua một lịch trình xếp đặt của
Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống. Rất ít khi bà Nhu xin gặp Tổng Thống và
những lần diện kiến ngắn ngủi dăm ba phút đó thì bà Nhu ăn mặc rất chỉnh
tề, cánh cửa văn phòng Tổng Thống mở rộng và bên ngoài là các sĩ quan
tùy viên và nhân viên văn phòng. Nếu bà Nhu là một loại đàn bà đanh
quánh hỗn láo thì chắc hẳn là thiên hạ sẽ được nghe và nhìn thấy những
hoạt cảnh ồn ào chợ búa trong những ngày tháng nơi xứ lạ quê người.
Tổng
Thống Diệm đặc biệt qúy mến bà Nhu vì đã mạnh bạo hoàn thành bộ luật
gia đình và nhất là bà Nhu đã sinh ra hai người con trai để nối tiếp
dòng họ Ngô Đình. Ông Ngô Đình Luyện có hai đời vợ nhưng cũng chỉ có
một binh đội đến mười cô con gái, mãi đến người con út mới được một mống
con trai. Con trai lớn của bà Nhu là Ngô Đình Trác lấy vợ người Ý và
bây giờ cũng có cháu gọi là ông nội rồi. Người con trai nhỏ là Ngô Đình
Quỳnh làm việc ở nước Bỉ và không lập gia đình cũng đã trên sáu mươi
tuổi. Từ sau năm 1963, ông Ngô Đình Trác sống ở Roma và chưa một lần đi
ra khỏi nước Ý. Câu chuyện đồn thổi bà Nhu cho ông Trác sang Mỹ để xin
lỗi người này người kia cũng chỉ là một bịa đặt láo khoét mà thôi.
Các
tài liệu về vụ phản loạn 1 tháng 11 năm 1963 do Hoa Kỳ điều động đã
được hoàn toàn giải mã. Đám quân nhân và các tổ chức liên hệ chỉ thi
hành những mệnh lệnh từ một bọn kiêu binh tác oai tác quái lợi dụng sự
nhu nhược của một ông tổng thống tồi tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Bà
Nhu biết và hiểu rõ phương cách điều hành của các cơ chế chánh trị Mỹ.
Tất cả đều bị sai khiến bởi các thế lực đứng sau toà Bạch Cung. Nói một
cách rõ ràng là những thế lực đó được điều hành và nhận chỉ thị từ những
nhóm Do Thái có thực lực nắm giữ huyết mạch chánh trị và tài chánh của
nước Mỹ. Cũng chính những thế lực này, qua bàn tay của Henry Kissinger
đã dâng hiến nước Việt Nam Cộng Hoà cho khối cộng sản quốc tế.
Khi nói về cái chết thảm thương của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn thì bà Nhu cũng chỉ nhỏ nhẹ nói “Tổng thống của nó mà nó còn giết thì tổng thống của mình nó coi ra gì ”.
Chữ “nó” đây bà Nhu cố ý nói về các thế lực Do Thái trong chính trường
Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy đã bị bắn chết trước mắt hàng triệu dân Mỹ
mà cho đến nay hơn một nửa thế kỷ sau vẫn không một cá nhân hay tổ chức
nào dám phanh phui ra tên tuổi của đứa đã cầm súng bắn vào đầu Tổng
Thống Kennedy. Những thế lực này mạnh đến nỗi ngay khi ông Obama được
đảng Dân Chủ đề cử cũng đã vội vàng bay sang Do Thái “trình diện”.
Trong suốt gần hai nhiệm kỳ tổng thống, ông Obama chưa hề có một lời nói
hay hành động nào làm mích lòng Do Thái. Đôi khi cũng có tiếng bấc
tiếng chì nhưng đó chỉ là những trình diễn có xếp đặt mà thôi. Bà Nhu
rất căm thù những nhóm quyền lực Do Thái đứng sau toà Bạch Ốc. Cũng
chính bọn này đã mua chuộc được hầu như tất cả giới truyền thông quốc tế
để cùng toa rập với nhau triệt hạ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà rồi sau đó
dâng hiến cho cộng sản quốc tế. Khi nói về cái chết của cô trưởng nữ
Ngô Đình Lệ Thủy, bà Nhu vẫn có những câu hỏi về vai trò của tổ chức
tình báo Do Thái trong tai nạn giao thông thảm khốc này.
Ai cũng biết là từ ngày tủi nhục vất vưởng nơi quê người, bà Nhu sống rất nghèo khổ, nhiều năm sống trong cơ hàn.
Trong
một bài viết, tôi có đề cập đến nhà bà Nhu là một đơn vị gia cư trong
một chung cư bề thế ở thủ đô Paris. Địa chỉ của chung cư đó là số 24
Rue du Suffrene, Paris 15. Tôi viết một cách lập lững rằng một tỷ phú
người Ý vì thương cảm nên đã cho bà Nhu một số tiền kếch xù để mua một
lúc hai đơn vị gia cư, một để ở và cái khác cho thuê lấy tiền sinh sống.
Sự thật không phải như vậy. Vị tỷ phú này có lòng từ tâm và rất
thương cảm hoàn cảnh của bà Nhu. Tuy nhiên vị tỷ phú này biết sử dụng và
đầu tư đồng tiền một cách rất khôn ngoan bên cạnh lòng nhân ái cứu giúp
người hoạn nạn. Bà Nhu được vị tỷ phú này nhờ mua một lúc hai đơn vị
gia cư của một chung cư ở vị trí rất đẹp ở thủ đô Paris bởi vì bà Nhu
vẫn còn những liên lạc với một số chính khách Pháp và có thể nhờ cậy các
vị này trong việc thương thảo mua bán. Bà Nhu đã nhờ một vị cựu bộ
trưởng thời chính phủ De Gaulle giúp mua hai đơn vị gia cư. Không ai
biết những cam kết và hợp đồng giữa bà Nhu và vị tỷ phú người Ý như thế
nào nhưng ai cũng biết là lúc còn sống thì bà Nhu sinh sống ở một đơn vị
và cái khác cho một nhà ngoại giao Nhật Bản thuê mướn để có tiền chi
tiêu. Chỉ một thời gian ngắn sau khi bà Nhu từ trần thì các con của vị
tỷ phú này đã tiến hành thủ tục pháp lý lấy lại hai đơn vị gia cư này.
Việc chuyển giao đã tiến hành một cách âm thầm và êm đẹp. Tất nhiên trị
giá của hai đơn vị gia cư này đã cao hơn nhiều lần lúc mua.
Trong
một lần tôi đang nói chuyện với bà Nhu thì chuông điện thoại reo, bà
Nhu đứng lên cầm ống điện thoại nhờ người gọi lấy dùm cái chụp đèn ở
ngoài tiệm về. Bà Nhu nói với tôi là rất thích cái chụp đèn bằng vải
này nhưng vì quá cũ nên có chỗ bị rách. Bà nhờ người mang ra tiệm sửa
lại nhưng tiền công sửa quá đắt, đến cả gần một trăm euros nên thôi
không sửa nữa. Nếu bà Nhu có mười bẩy tỷ Mỹ kim như một vài “sử liệu”
tiết lộ thì đâu có phải tính toán đắn đo gì với số tiền công sửa cái
chụp đèn này.
Sau
ngày phản loạn 1-11-1963, để lấy điểm với một vài phe nhóm và bọn tay
sai nằm vùng của cộng sản Bắc Việt thì những người nắm quyền đương thời
cũng trình diễn ra những cái gọi là ủy ban điều tra tội ác và tài sản
nhà Ngô. Cuối cùng thì những ủy ban này với bao nhiêu hận thù và điêu
ngoa gian dối sau khi vắt cạn kiệt ác tâm cũng đã chế tạo ra được hai
cái “sử liệu” rất hoành tráng để đưa vào “chính sử”. Thứ nhất là bà Nhu
có mười bẩy tỷ Mỹ kim, hai thương xá ở Paris và một đồn điền ở Ba Tây.
Thứ nhì là Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tàn sát ba trăm ngàn Phật tử ở
miền Trung. Các “sử gia chân chính” đã xác nhận như vậy thì chắc hẳn
phải là “chính sử”.!!!
Chung cư 24 Rue du Suffren Paris 15
Nói
và viết về bà Ngô Đình Nhu thì toàn là những chuyện buồn phiền đau khổ.
Vậy xin kể một chuyện vui vui. Một thanh niên người Ý bảnh trai con
nhà gia thế cùng cha mẹ thưa chuyện với bà Nhu xin cưới cô con gái út
Ngô Đình Lệ Quyên, tiến sĩ Luật Khoa Roma. Trong lúc vui vẻ chuyện trò
thì bà Nhu nói với chàng rể tương lai rằng mỗi tuần lễ bà chỉ ăn hai hay
ba lần thôi,nếu anh có thể ăn uống được như vậy thì tôi sẽ gả út cưng
cho. Anh chàng này vẫn có lòng kính phục bà mẹ vợ tương lai nên xin hai
tháng để thử thách. Sau hai tháng nhịn ăn nhịn uống, rồi cũng quen dần.
Bởi vậy anh chàng gầy đét như con mắm khô, chỉ thấy da bọc xương. Cho
đến bây giờ, mặc dầu cô vợ yêu qúy đã chết vì một tai nạn xe cộ nhưng
anh này vẫn giữ thói quen ăn uống như vậy.
Con
người ta ai rồi cũng sẽ trở về cát bụi. Nhớ bà Ngô Đình Nhu với hình
ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi, đức hạnh và hết lòng vì quê
hương đất nước. Nguyện cầu hương hồn bà an vui nơi cõi hằng sống..
Luật sư Trương Phú Thứ .
Cảnh bà Ngô Đình Nhu rời LA đi Rome sau khi chồng bị giết
*
* *
Bà Ngô Đình Nhu trả lời phỏng vấn năm 1982 (phụ đề Việt ngữ)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire