Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến cuối năm thứ hai
mươi tám của cuộc đời. Huế đã mang thai tôi, đẻ ra tôi cho đến khi tôi
đi lạc vào Sài-gòn. Từ hơn hai năm nay tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn
chả giò, ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt bò vò viên, mía ghim… Hôm
nào anh vào Sài-gòn tôi sẽ đãi anh ăn một bữa thịt bò bảy món (mọi lần
gọi là “bò bụng” vì ăn vào đầy một bụng thì thôi). Đàn ông ở Sài-gòn ăn
chua dữ lắm anh Đỗ ạ! có nhiều ông vác cả trái cốc dầm cam thảo vừa đi
vừa ăn lêu nghêu dọc đường.
Tôi vào Sài-gòn đã hơn hai năm mà vẫn còn hụt
chân chưa đứng vững được, nghĩa là: tôi chưa hề viết được một chữ về cái
Sài-gòn này. Khiếp quá! một lỗ hổng lớn… Còn nhớ thời gian ở Huế, khi
tôi mang ý định bỏ Huế vào Sài-gòn ra nói với anh thì anh đã làm ra như
cản như không: Chị chuồn hả? mình ở Huế có ai làm gì mình được?
Mình ở Huế có ai làm gì mình được … nghe thấm
thía, thấm như nước mắm thấm vào cá nục kho khô trong trách đất. Tôi vào
Sài-gòn đâu phải là một cuộc tháo thân, vì đâu có biết trước rằng trong
tương lai Huế sẽ trải qua vụ đổ huyết rợn gáy lịch sử là cái biến cố
Mậu-thân vừa rồi. Hồi đó chúng ta đã chẳng bàn với nhau: Cộng-sản chắc
không chịu đánh Huế đâu? chẳng thêm cho họ được chút gì cả. Cái gọi là
quân sự đâu phải là đất thần kinh nhà mình. Rồi chúng ta nhìn Sài-gòn,
nhìn Nha-trang, nhìn Đà-nẵng bằng cặp mắt lo ngại… Bây giờ mới biết Huế
đã đứng thật gần lịch sử!
Tôi cam đoan không có người Huế nào yêu Huế bằng
tôi mặc dầu tôi đã bỏ Huế mà đi gần ba năm nay. Tôi là một trong những
người yêu Huế nhất với cái bằng chứng: tôi chỉ viết được lai rai vài ba
tác phẩm thôi mà cuốn nào cũng nói về Huế. Huế! Huế! hễ cứ cầm cây bút
lên là Huế! (Tôi yêu Huế chứ không phải yêu người Huế). Phải là một thứ
tình đậm đặc, kéo xiết khốc ác và cưỡng bức thế nào tôi mới viết về Huế
hết mình như vậy! Mặc dầu có những người Huế không bằng lòng tôi viết ra
một cái-Huế-như-vậy! Nhưng văn chương là viết những điều mình nghĩ và
không làm dáng. Tôi chỉ đặt vấn đề là tôi thương Huế mà thôi! Bỏ Huế mà
đi lòng nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Tôi không yêu một thứ vẻ đẹp
cấm cung, một thứ vẻ đẹp hạn hẹp, mà yêu bao la cả một khoảng thiên
nhiên. Huế đẹp từ một vũng nước đọng bên đường đến lượng cả con
Hương-giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già xanh lục. Có
nhiều hôm đi xe đạp lên cầu ga nhìn dãy núi lam phía sau cầu Bạch-hổ mịt
mịt mùng mùng mà tưởng cái phần hồn của từng kiếp người cũng có thể
dăng dài keo kéo dãy như vậy! Những đêm mùa đông, những con “ệng oạng”
kê mõm khoắc khoải kêu khan từ những ao rau muống… Kêu chi mà khổ, mà
trầm thống! Thêm vào đó, tiếng rao hàng dài lê lết: mua trứng lộn! mua
trứng lộn… Trời ơi! tiếng kêu của miếng ăn sao mà buồn đến thế! nhức
xương buốt tủy mất! Tưởng tượng mở cửa kêu vào chắc mình phải ôm cô hàng
trứng mà khóc ngất! Rồi cái quán cơm, quán cơm cũng mang tên Âm-phủ ăn
dưới ngọn đèn tù mù… và con đường Âm-hồn, tiếng chuông chùa Diệu-đế… Cực
lòng quá Huế ơi! Tôi đi! Tôi đi… ở với Huế buồn lắm… Vào Sài-gòn họa
may có một nụ cười…
Buổi sáng tôi đi, tôi ôm gói áo quần xuống phi
trường Phú-bài. Huế của tôi, tôi biết, không bao giờ khóc người đi và
cũng chẳng bao giờ mừng người trở lại. Huế của tôi không yêu ai mà cũng
chẳng phản bội ai.
Anh Đỗ, khi chân vừa chấm đất Sài-gòn, tôi nhìn
lại chiếc tàu bay mà lòng co quắp đau đớn: thôi! mất Huế hẳn rồi. Tôi
thương con đường Phan Chu Trinh với ngôi nhà thềm trắng, bồn hoa
violette, hai cây dừa xiêm giắt những gói muối, và bến sông thân yêu
trước mặt. Tôi biết rằng rồi đây người Huế sẽ lần lần từng người từng
người rủ nhau bỏ đi. Vì đó là mảnh đất tán chứ không phải tụ. Trời ơi!
ra đi như vậy thì còn để ai ở lại mà ngắm, còn để ai ở lại mà làm người
mộng áo trắng qua cầu, tóc thề vương vương con đò Thừa-phủ. Ngày chưa
chia ly, ngày Huế chưa chia ly với tôi và với những người khác, dân cư
cũng đã quá thưa thớt, nhà cửa cũng ít ỏi… Năm 1963, hai chiếc taxi
Sài-gòn ra Huế chạy rước khách kiếm sống nhưng không kiếm được chút đỉnh
gì đành phải quay lui lại Sài-gòn. Anh Đỗ, Huế thừa lẽ sống nhưng lại
thiếu kế sống. Thành phố rất tinh thần, chỗ đất rất thần kinh. Những ai
không chịu được nỗi buồn cưỡng bức, những ai giá áo túi cơm đều tìm
không ra lẽ để sống với Huế. Tôi đã ra đi vì sợ nỗi buồn cưỡng bức, vì
không ngửi thấy nguồn hương tinh thần dành an ủi những tâm hồn không bao
giờ chịu xa Huế. Chỉ có những người chung thủy với Huế nhất mới ngửi
thấy nguồn hương tinh thần đó. Vì rằng ngày xưa khi vua đầu triều nhà
Nguyễn đang tâm niệm tìm một chỗ đất đóng đô thì thần linh hiện lên bảo:
“hãy đứng bên trên đầu tổ quốc, hãy thắp một cây hương rồi lần theo
phương Nam mà đi xuống, đến chỗ nào cây hương tắt thì hãy đóng đô.” Vì
lẽ đó Huế là đất thần kinh. Kinh đô thần linh đối với những kẻ đeo chiếc
mũi phàm tục chai sạn không ngửi thấy nguồn hương tinh thần đầy an ủi
là một giải đất buồn phải không anh Đỗ. Buồn quá mà tôi đi phải không
anh Đỗ? phải không Huế?
Anh Đỗ! chào anh.
TÚY-HỒNG
(Văn số Xuân Kỷ Dậu 1969)
*
* *
* *
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire