- “Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
- Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ”
Trong hai thập niên
(1954-1975) nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phục vụ trong QLVNCH đã nổi tiếng
nhiều ca khúc trữ tình, đặc biệt với ảnh người lính giữa thời chinh
chiến. Trải qua nhiều thập niên, những tình khúc của ông từ lúc sáng tác
cho đến nay ở hải ngoại vẫn làm rung động trái tim khi thưởng thức.
Nguyễn Văn Đông là một nhạc
sĩ thành danh của dòng nhạc tình ở Sài Gòn trước 1975, tác giả của nhiều
ca khúc nổi tiếng. Ông còn một vài bút danh khác như Phượng Linh,
Phương Hà, Đông Phương Tử, Vì Dân, Hoàng Long Nguyên…
Trong bài viết của Trường Kỳ “Nguyễn Văn Đông: Giữa Binh Nghiệp & Âm Nhạc” đề cập đến cuộc đời binh nghiệp:
“Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn. Nguyên quán ông
bà, cha mẹ ông ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Thuở nhỏ ông theo học
trường Huỳnh Khương Ninh ở Đa Kao. Khi đất nước gặp phải những biến động
lớn lao vào năm 1945, gia đình ông bị liệt vào thành phần địa chủ,
cường hào nên lâm vào cảnh khuynh gia bại sản, gia đình ly tán. Do đo,
tuổi thơ của ông là người con duy nhất trong gia đình cũng bị vùi dập để
cuốn theo thời cuộc lúc bấy giờ.
Sau khi trường trung học
Hùynh Khương Ninh đóng cửa, ông tự ý xin gia nhập trường Thiếu Sinh Quân
Việt Nam. Đó cũng là nơi đào tạo nhiều vị tướng lãnh tài ba của Quân
Đội VNCH. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã trải qua 5 năm theo học ở ngôi
trường này.. Và chính tại đó ông đã được học nhạc và văn hóa với những
giáo sư người Pháp có thực tài. Đó là những giảng viên của Viện Âm Nhạc
Quốc Gia Pháp được cử về trường Thiếu Sinh Quân giảng dạy. Trong thời
gian ông theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam, Nguyễn Văn Đông
là một thành viên của Ban Quân Nhạc Thiếu Niên, khi mói lên 15 tuổi:
“Trường Thiếu Sinh Quân có riêng một đoàn quân nhạc trên 40 người có tầm
vóc của người lớn, nhưng lại do chính những em Thiếu Sinh Qưân chưa quá
16 tuổi đời cử hành nhạc và do một giáo sư nhạc trưởng người Pháp chỉ
huy. Đoàn quân nhạc của chúng tôi có những nhạc sĩ tí hon có mặt trong
những buổi lễ duyệt binh, diễu hành quan trọng một cách đường hoàng như
các đoàn quân nhạc chuyên nghiệp người lớn”.
Với đoàn quân nhạc tí hon
này, ông sử dụng nhiều nhạc khí như: trompette, clairon, trống, chập
chả, vv… Nhưng một cách chuyên nghiệp hơn là ông sử dụng đàn madoline và
guitare Hawaiienne trong ban nhạc nhẹ của trường.
Nhờ sống trong một môi
trường âm nhạc sôi động như vậy trong trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam,
Nguyễn Văn Đông đã có dịp học sáng tác từ những giáo sư người Pháp. Kết
quả là ông đã viết được những ca khúc đầu tiên ở tuổi 16 như Thiếu Sinh
Quân Hành Khúc, Tạm Biệt Mùa Hè…
Những nhạc phẩm này đã đuợc
nhà trường chấp thưận cho phổ biến và được rất nhiều bạn bè ưa thích.
Ông cho biết cho đến nay tuy đã gần 60 năm sau, nhưng khi ông gặp lại
một số bạn bè, những người này vẫn còn thuộc nằm lòng những ca khúc này
và hát lại cho nhau nghe như những kỷ niệm khó quên của thời niên thiếu.
Trong suốt 5 năm theo học ở trường Thiếu Sinh Quân, ông luôn luôn đoạt giải giọng ca hay nhất toàn trường…” (TK).
(Ghi chú thêm: Cuối năm
1951, sau khi ra trường Thiếu Sinh Quân, Nguyễn Văn Đông nhập ngũ vào
Quân Đội Quốc Gia, mang số quân: 52/120.117, theo học khóa 4 trường Võ
Bị Địa Phương Nam Việt Vũng Tàu (còn gọi là Trường Võ Bị Cap Saint
Jacques). Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc
Thiếu Úy. Qua năm 1953, được cử đi học khóa huấn luyện Đại Đội Trưởng
tại trường Võ Bị Đà Lạt. Cũng năm này, ông có chân trong ban giám khảo
chấm thi khóa Võ Bị Đà Lạt 1953 do Quốc Trưởng Bảo Đại chủ tọa lễ bế
giảng khóa.
Năm 1954, ông được gửi ra Hà
Nội theo học khóa Tiểu Đoàn Trưởng tại Trung Tâm Chiến Thuật Hà Nội. Ra
trường, ông được giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ Trọng pháo 553 và là
Tiểu Đoàn Trưởng trẻ nhất của Quân Đội Quốc Gia khi mới 22 tuổi. Sau
Hiệp định Genève 1954, di chuyển vào Nam, được thăng cấp Trung Úy, phục
vụ tại Phân Khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân, dưới
quyền Đại Tá Nguyễn Văn Là.
Đầu tháng 11 năm 1955, ông
chuyển biên chế sang Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, được cử chức vụ Trưởng
Phòng 3 của Phân Khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến Dịch
Thoại Ngọc Hầu, hình ảnh ông được đăng trên bìa báo Chiến Sĩ Cộng Hòa.
Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại tiểu bang
Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Hòa 26 tháng 10 năm 1959,
ông được thăng cấp Đại Úy.
Sau ngày 1/11/1963, ông được
thăng cấp Thiếu Tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu phục vụ ở Khối
Lãnh Thổ. Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung Tá
phục vụ trong Khối Lãnh Thổ. Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Hòa 1 tháng 11
năm 1972, ông được thăng cấp Đại Tá làm Chánh Văn Phòng cho Tổng Tham
Mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975. (Trung
Tướng Nguyễn Văn Là, Tổng Tham Mưu phó đặc trách Bình Định & Phát
Triển kiêm Tư Lệnh Địa Phương Quân & Nghĩa Quân. Vì vậy Đại Tá NVĐ
coi như người thân tín)
Ông từng được nhận huy chương cao quí nhất của Việt Nam Cộng Hòa là Bảo Quốc Huân Chương vào giữa thập niên 60…
Trong sinh hoạt văn nghệ, từ
năm 1958, Nguyễn Văn Đông là trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài
Phát Thanh Sài Gòn… Năm 1959, Nguyễn Văn Đông là trưởng ban tổ chức đại
hội thi đua Văn Nghệ Toàn Quốc, đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại
diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông
cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia vào cuối thập niên 50.
Tuy phục vụ trong quân ngũ,
Nguyễn Văn Đông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca
nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn
Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân…. cho ra đời nhiều chương trình ca nhạc,
các vở tuồng, cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong
thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông
đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng…
Là sĩ quan cao cấp trong
Quân Lực Việt Nam Công Hòa với cấp bậc Đại Tá. Ông đã viết nhiều nhạc
phẩm về người lính miền Nam khi đó như Chiều Mưa Biên Giới, Phiên Gác
Đêm Xuân, Mấy Dặm Sơn Khê, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Lá Thư Người
Lính…
Nhạc Nguyễn Văn Đông qua tiếng hát Hà Thanh
Theo lời tác giả “Bản nhạc
Chiều Mưa Biên Giới được viết vào năm 1956. Khi ấy tôi là Trung Úy
trưởng phòng hành quân của chiến khu Đồng Tháp Mười là người có trách
nhiệm đề ra những phương án tác chiến. Lần đó tôi dẫn đầu một nhóm biệt
kích bí mật đi điều nghiên chiến trường dọc theo biên giới Miên-Việt và
Đồng Tháp Mười. Trên đường về, anh em chúng tôi lâm vào cảnh trời chiều
gió lộng, mưa gào như vuốt mặt. Giữa cánh đồng hoang vắng tiêu sơ, lối
vào tiền đồn thì xa xôi, thoáng ẩn hiện những nóc tháp canh mờ nhạt ở
cuối chân trời. Và từng chập gió buốt kéo về như muới sát vào thịt da.
Từ trong cảnh ấy, tận đáy lòng mình đã nghe nẩy lên những cung bậc rung
cảm, những trường canh đầu tiên buồn bã cho bài Chiều Mưa Biên Giới anh
đi về đâu…”
Sau tháng Tư năm 1975,
Nguyễn Văn Đông trải qua 10 năm lao tù và được trả về ngày 01 tháng
Giêng, 1985 với lý do: “Đương sự bị bệnh sắp chết, nên cho phép gia đình
đem về nhà chôn cất!”
Sau khi ra tù Nguyễn Văn
Đông chia sẻ “Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng,
tinh thần và thể xác bị suy sụp…”. Và niềm an ủi khi lập gia đình với
người bạn đời – chị Thu trước năm 1975 nhân viên của hãng đĩa
Continental do ông làm giám đốc – có một cửa hàng bán bánh mì, thịt
nguội với nhiều lọai kẹo bánh dưới tên Nhiên Hương ở Phú Nhuận, nguồn
thu nhập của hai vợ chồng người nhạc sĩ suốt mấy thập niên qua. Năm
1990, diện H.O cho cựu Tù Nhân Chính Trị định cư tại Hoa Kỳ, Nguyễn Văn
Đông không đi với suy nghĩ của ông “Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng
như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã
nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha
bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở
cuối đời’’. Vẫn theo lời nhạc sĩ “Không hiểu do đâu, mà Trời Phật đã
nhìn lại ông và, cho ông sống, dù là một đời sống ‘rất lê lết’ cho đến
ngày hôm nay”.
*Ca Khúc Mùa Xuân
* Phiên Gác Đêm Xuân
Mùa xuân trong nhạc Nguyễn Văn Đông
- Phiên Gác Đêm Xuân - Hà Thanh
- Nhớ một chiều xuân - HÀ THANH
- Dáng Xuân Xưa - Sĩ Phú
- Khúc Xuân Ca - Ánh Tuyết & ACM
- Sắc Hoa Màu Nhớ - Lệ Thanh
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ghi lại hồi ký thời điểm sáng tác ca khúc nầy:
“Vào năm 1956, đơn vị tôi
đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu
nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung Úy, mới 24
tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn xanh nhưng tâm tình đã
nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất
địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như
Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong chiến dịch Thoại Ngọc
Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên
Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi
vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối tình nho nhỏ
thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến
đầu đời.
Ngày đó Đồng Tháp Mười còn
là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co
cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở
hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm
với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều,
Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ
Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu
lại đến ngày nay.
Mùa Xuân năm đó, đơn vị tôi
đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt Nam –
Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã có những
cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa danh Ấp
Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa
xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười vẫn đua nở
trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi độ xuân
về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê Sáp, vượt
vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc nhở Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người được về
quê ăn Tết.
Vì còn độc thân nên tên tôi
được ưu tiên ghi vào Sổ Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những
ngày Tết. Dù không ai nghĩ có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh
phải được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên
chốt tiền tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút
hành trang lương khô, cùng tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là
cơ duyên sau đó để tôi viết nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.
Tiền đồn cuối năm, đêm 30
Tết, trời tối đen như mực, phút giao thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh
chưng xanh, không hương khói gia đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát
qua đêm tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu
điểm như những mái nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ
màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là
tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật khẩu lên phiên gác.
Vào đúng thời điểm giao
thừa, ngọn đèn bão dưới chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì
cũng là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi
ấy vào buổi tinh mơ của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào
trong tôi, có hồn thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân.
Tôi nghe tâm hồn nghệ sĩ của
mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc đầu
tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:
- “Đón giao thừa một phiên gác đêm
- Chào Xuân đến súng xa vang rền.
- Xác hoa tàn rơi trên báng súng
- Ngở rằng pháo tung bay
- Ngờ đâu hoa lá rơi…”
Rồi mơ ước rất đời thường:
- PK: “Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
- Mơ rằng đây mái nhà tranh
- Mà ước chiếc bánh ngày xuân
- Cùng hương khói vương niềm thương…
- ĐK: Chốn biên thùy này xuân tới chi?
- Tình lính chiến khác chi bao người
- Nếu Xuân về tang thương khắp lối
- Thương này khó cho vơi, thì đừng đến Xuân ơi!”
Lúc đó Bộ Thông Tin cấm phát
hành vì cho rằng lời ca mang tính tiêu cực như những dòng thơ của Chế
Lan Viên thời tiền chiến trong bài thơ Chiều Xuân:
- “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
- Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
- Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”
Bài Phiên Gác Đêm Xuân được
ra đời trong hoàn cảnh như thế…, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về
đời lính như Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc
Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến,
Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt…. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản
nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi…”.
*
Nhớ Một Chiều Xuân
Ca khúc Nhớ Một Chiều Xuân,
sáng tác để kỷ niệm chuyện tình lãng mạn với một thiếu nữ bản xứ khi đi
tu nghiệp Khóa Chỉ Huy & Tham Mưu ở Hawaii năm 1957.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông viết
ca khúc nầy để nhớ một người con gái mang quốc tịch Áo.. Họ đã gặp và
yêu nhau tại quần đảo Hawaii. Ngày chia tay để trở về Việt Nam, ông đã
thề ước là sẽ trở lại và không phụ tình cô gái. Nhưng rồi chiến tranh
liên miên, ngày càng thêm ác liệt, ông đã không thể thực hiện lời thề
hẹn của mình. Cuộc tình ấy đã ly tan, với nỗi niềm:
- “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
- Chạnh lòng tôi khơi… bao niềm nhớ
- Người nơi xa xăm phương trời ấy
- Người còn buồn còn thương còn nhớ
- Nắng phai rồi…. em ơi!
- Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi tìm
- Một tình thương nơi… phương trời cũ
- Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
- Chiều tàn dần phai trên ngàn lá
- Tìm đâu bóng… hình ai?
- ĐK
- Người vê còn nhớ… khúc hát
- Người yêu dấu bên bờ thành Vienne
- Lòng này còn quyến… luyến mãi
- Đêm Xuân dài mà đâu có hay
Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
- Đợi mùa Xuân sang tô… màu nhớ
- Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm
- Buồn tìm về tình ai đằm thắm
- Giờ vun vút trời mây!”
Trong ca khúc Mấy Dặm Sơn Khê mang hình ảnh nơi núi rừng Tây Nguyên với nỗi buồn:
- “Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng
- Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
- Anh đến đây rồi anh như bóng mây
- Chốn phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh”
Cũng như ca khúc Chiều Mưa
Biên Giới, Lá Thư Người Lính Chiến, ca khúc nầy mang hình ảnh nơi núi
rừng cao nguyên với nỗi buồn nên một thời bị Bộ Thông Tin cấm vì quá ủy
mị, có vẻ “phản chiến” làm nhụt nhuệ khí của tinh thần chiến sĩ.
- “Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng
- Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
- Anh đến đây rồi anh như bóng mây
- Chốn phương trời ấm lạnh, hòa chung mái nhà tranh”
Nguyễn Văn Đông tâm sự: “Ông
có những mùa Xuân buồn trong quãng đời thơ ấu, nhiều bất hạnh! Như gia
đình lâm cảnh tang thương. Người thân yêu ly tán trong chiến tranh, ông
mất mùa Xuân tuổi thơ khi cha mẹ bị tù đày. Lớn lên đi lính, ông lại
thường bị ứng trực vào mùa Xuân ở các đơn vị hẻo lánh….”. Hầu hết các ca
khúc về Xuân với niềm vui nhưng dĩ vãng đau buồn vẫn ám ảnh trong lòng
tác giả nên trang trải qua từng ca khúc.
Gia tộc Nguyễn Văn Đông là
điền chủ ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nơi đó có mối thân tình xóm
giềng với gia đình ông hương Cả. Năm 1945 “cách mạng mùa Thu” bùng nổ,
ông Hương Cả bị đưa ra trước tòa án nhân dân; lãnh bản án “cường hào ác
bá” rồi bị xử bắn. Xác thả trôi sông. Thuở bé Nguyễn Văn Đông học trường
Huỳnh Khương Ninh, phường Đakao, Tân Định, Sài Gòn. Năm 1945, 1946 loạn
lạc, trường Huỳnh Khương Ninh đóng cửa. Cha mẹ nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
từ Sài Gòn tản cư về cố hương, bị liệt vào hàng “địa chủ ác ôn”. Ông bà
bị bắt làm tù lao công khổ sai. Tịch biên tài sản, sung vào quỹ kháng
chiến. Gia đình ly tán. Cửa nhà tan nát. Ông Hương Cả có một cô con gái
xinh đẹp. Hai bên gia đình cùng giao ước kết thông gia khi hai trẻ lớn
lên. Khi ấy Nguyễn Văn Đông và cô bé kia còn vị thành niên nên tình cảm
trai gái của “thuở ban đầu” ngây thơ… Đôi trẻ trôi giạt, mỗi người một
phương. Họ bặt tin nhau!… (Trong ca khúc Về Mái Nhà Xưa, Nguyễn Văn Đông
nói lên niềm đau khi trở lại chốn xưa). Nhờ Trường Thiếu Sinh Quân được
coi như mái nhà nuôi dưỡng “đứa con lạc loài” để tạo dựng cuộc đời
trong quân ngũ và sinh hoạt văn nghệ.
Trong bài viết của Lê Hữu
thì: “Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn
Đông, như được ‘nâng’ lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của
những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn,
chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được
soi sáng hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người
lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục những hy sinh cao cả và thầm lặng
của người chiến binh vì nước quên mình. Vậy thì không thể nào không cám
ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người những mối cảm xúc
sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến tranh đã đi qua, những
bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm
lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng của
người lính chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong
tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ,
Douglas MacArthur: ‘Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ nhạt
mờ đi thôi’ (Old soldiers never die, they just fade away).
Sau bao mùa tang thương dâu
bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, ‘người lính già Nguyễn Văn Đông’,
vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông
núi, vẫn chưa mất niềm tin
vào vận mệnh đất nước, vẫn còn nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn
Văn Đông nặng trĩu tình quê tình nước của những ngày đầu bước chân vào
đời quân ngũ.
- Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
- Kết trong lòng thế hệ
- Nghìn sau nối nghìn xưa…”
* Khúc Xuân Ca
Khác với các ca khúc đề cập ở
trên, Khúc Xuân Ca như lời tình tự với người yêu. Là nhạc sĩ tài hoa,
sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, không thể nào thiếu bóng hồng “đi qua đời
ông” nhưng Nguyễn Văn Đông rất kín tiếng chuyện tình yêu. Nhiều nhạc sĩ
khi sáng tác ca khúc trữ tình thường nói lên hình bóng nào đó làm nguồn
cảm hứng nhưng Nguyễn Văn Đông thì ngược lại.
- “PK: Em mùa Xuân hồng, gieo trên phím tơ đồng.
- Cho đời mơ mộng, thả ý thơ chờ mong.
- Em mùa trăng rằm, cho vương áng mây hồng.
- Xin đừng thay lòng, nhạt màu ái ân.
- ĐK: Mùa xuân thay áo, hồng trên má hoa đào.
- Vườn xuân xôn xao, câu ái ân thầm trao.
- Kìa trong ánh xuân tươi, nhịp chân bước đôi mươi..
- Nàng Xuân hé môi cười, nhạc lòng nghe chơi vơi.
- Em có hay chăng lòng anh, trọn đời yêu em mãi thôi.
- PK: Em mùa Xuân hồng, cho anh vương tơ lòng.
- Xin bờ môi hồng, ý thắm chuyện trăm năm.
- Xuân mùa tâm đồng, cho đôi lứa yêu thầm.
- Tay cầm tay mừng, mùa Xuân ái ân…
- Nào dìu nhau đi, mùa xuân như ý”.
Khi nhạc sĩ “vương tơ lòng” để “trọn đời yêu em mãi mãi” cho đến bây giờ vẫn là hình ảnh bí ẩn.
Ca khúc Dáng Xuân Xưa cũng mang niềm tâm sự mối tình dang dở như bóng dáng mùa Xuân đã đi qua cuộc dời tác giả:
- “ĐK: Xuân sang lả lơi chợt thấy hoa cười
- Nối duyên chạnh nhớ một người
- Từ mùa Xuân trước tới bây giờ còn mơ
- Xuân nào sánh vai cùng ngắm hoa đào
- Ái ân nào chẳng lúc tàn
- Vườn em thơm ngát chờ anh bước sang
- PK: Xuân nay mang về kỷ niệm ngày xưa thênh thang
- Bâng khuâng thấy hoa mỉm cười chạnh nhớ tới người
- Đầu cành oanh ăn nói hình dáng Xuân xưa
- ĐK: Em ơi ước mơ thì cũng lỡ rồi
- Trách nhau thì cũng xa rồi
- Lòng ta lơ đãng mà Xuân vẫn sang…”
*
Tuy phục vụ trong quân đội,
Nguyễn Văn Đông sáng tác một số ca khúc về người lính nhưng không mang
màu sắc tuyên truyền như lối “phanh thây uống máu quân thù” mà chỉ tỏ
bày niềm đau, nỗi buồn của người lính nơi tiền đồn, núi rừng… nhưng khi
đổi đời “đứa con tinh thần” đó cũng bị hẩm hiu như cuộc đời tác giả.
Nguyễn Văn Đông chia sẻ: “Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà
nước cho phép. Tôi hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp
hơn. Đặc biệt trong lãnh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì
có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có
ngày được mang trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người
ngắn ngủi mà tôi đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm
tiếc!”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, qua
các bút hiệu khác đã sáng tác khoảng một trăm ca khúc từ tân nhạc đến
tân cổ giao duyên. Trong phạm vi bài nầy chỉ đề cập vài ca khúc của ông
liên quan đến hình ảnh mùa Xuân đã đi vào lòng người trải qua nhiều thập
niên.
Vương Trùng Dương
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire